Bản án 314/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN NAM TỪ LIÊM, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 314/2020/HS-ST NGÀY 28/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 28 tháng 12 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 334/2020/TLST- HS ngày 07/12/2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 332/2020/QĐXXST- HS ngày 14/12/2020 đối với bị cáo:

Lê Minh T, sinh năm 1992; Đăng ký nhân khẩu thường trú: Số 5 ngõ 14 phố C, N, T, Hà Nội; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Minh C, sinh năm 1964 và bà Nguyễn Thị Thanh T, sinh năm 1969; Vợ là Đinh Kim N, sinh năm 1992; Có 01 con, con sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 28/8/2020, chuyển tạm giam từ ngày 06/9/2020 đến nay. Hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam số X, Công an thành phố Hà Nội. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 12 giờ 50 phút, ngày 27/8/2020, tổ công tác Công an phường M, Công an quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội làm nhiệm vụ tại ngõ 14 đường Đ, M. T. H, phường M, quận N, thành phố Hà Nội phát hiện Lê Minh T đang ngồi trên xe máy Wave α màu trắng, BKS: 29D2 -282.39 có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra. Tại chỗ, T khai đang chờ để bán ma túy cho khách và chỉ vị trí cất giấu gói ma túy tại chân cột điện cách nơi T đứng khoảng 1,5m. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, dẫn giải Lê Minh T cùng tang vật chứng về Công an quận Nam Từ Liêm để điều tra làm rõ.

Vật chứng thu giữ:

- 01 túi nilon kích thước 2x3 cm, bên trong có chứa tinh thể màu trắng nghi là ma túy;

- 01 xe máy Honda Wave α màu trắng, BKS: 29D2 -282.39;

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, loại máy Redmi K30i 5G, lắp sim số 0974791992 và 0358169023.

Tại bản kết luận giám định số 7872 ngày 04 tháng 9 năm 2020 của Phòng Kỹ thuật Hình sự - Công an thành phố Hà Nội xác định: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói nilon là ma túy loại Methamphetamine, khối lượng 0,218 gam.

Quá trình điều tra xác định:

Khong tháng 05/2020, T có quen biết một người bạn xã hội tên H (không rõ nhân thân lai lịch) và cùng sử dụng ma túy với H. Sau đó, H giới thiệu cho T tài khoản zalo “Vũ Quốc T” của một người bán ma túy tên T1. Khoảng 11h00 ngày 27/8/2020, khi T đang ở nhà tại địa chỉ: Số 2 tổ 15, ngõ 271 B. X. T thì nhận được điện thoại và tin nhắn từ thuê bao số 0967074226 của một nam thanh niên (không rõ nhân thân lai lịch) tự xưng là bạn của H hỏi mua 300.000 đồng ma túy Methamphetamine, trả phí vận chuyển là 50.000 đồng và hẹn T mang ma túy đến địa chỉ: Ngõ 14 đường Đ, M. T. H, phường M, quận N để giao dịch. T đồng ý, sau đó dùng tài khoản zalo có tên “Đen” của mình nhắn tin vào tài khoản zalo “Vũ Quốc T” của T1 để hỏi mua 300.000 đồng ma túy loại Methamphetamine. T1 đồng ý và bảo T chuyển tiền vào tài khoản game online qua số tài khoản 19036406243019 của trang web W88. Sau khi T chuyển tiền, T1 chỉ địa điểm đến lấy ma túy tại gốc cây trên bờ hồ H, đoạn đối diện số nhà 306, đường M, phường T, quận Đ, Hà Nội. Sau khi lấy được gói ma túy, T cầm trên tay trái rồi điều khiển xe máy Honda Wave α, BKS: 29D2 - 282.39 đi đến ngõ 14 Đ. Đ. D, M. T. H, M, N, Hà Nội. T để túi nilon trong có chứa ma túy dưới chân cột điện rồi dừng xe cách đó khoảng 1,5m để chờ khách mua ma túy thì bị tổ công tác Công an phường M kiểm tra, bắt giữ.

Tại Cơ quan điều tra, Lê Minh T khai nhận hành vi phạm tội nêu trên.

Đối với đối tượng tên H là người rủ T sử dụng ma túy, đối tượng tên T1 (có zalo “Vũ Quốc T”) là người bán ma túy cho T và đối tượng mua ma túy cho T (như T khai). Quá trình điều tra không xác định được lại lịch, địa chỉ. Nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để điều tra làm rõ và xử lý.

Đối với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave α màu trắng, BKS 29D2-282.39 (thu giữ của T khi bắt quả tang). T khai nguồn gốc xe là của một người bạn tên Q (không rõ nhân thân lai lịch) vay T số tiền 3.000.000 đồng và để lại xe máy cho T sử dụng. Quá trình điều tra xác định chiếc xe trên đăng ký mang tên Đỗ Thị B (HKTT: 2B ngõ 107/2 H. M, Q, quận H, Hà Nội). Xác minh tại Công an phường Q cung cấp không có người tên Đỗ Thị B sinh sống tại địa chỉ trên. Do đó, chuyển chiếc xe trên đến Toà án để xử lý theo quy định của pháp luật.

Tại bản cáo trạng số 328/CT- VKS ngày 30/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm bị cáo Lê Minh T bị truy tố về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, bị cáo Lê Minh T khai nhận hành vi phạm tội của mình, thành khẩn nhận tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quan điểm như cáo trạng truy tố và kết luận bị cáo Lê Minh T đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Sau khi đánh giá tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, xem xét tình tiết giảm nhẹ, đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Khoản 1 Điều 251, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự tuyên phạt bị cáo Lê Minh T mức án từ 24 tháng đến 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Do bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung.

Xử lý vật chứng: Căn cứ điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 đề nghị Tòa tuyên:

+ Tịch thu tiêu hủy số ma túy;

+ 01 xe máy Honda Wave α màu trắng, BKS: 29D2 – 282.39, bị cáo Thắng sử dụng để làm phương tiện phạm tội cần tịch thu sung công quỹ.

+ 01 điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, loại máy Redmi K30i 5G, lắp sim số 0974791992 và 0358169023 có liên quan đến việc phạm tội cần tịch thu sung công quỹ.

Lời nói sau cùng bị cáo thấy ăn năn về hành vi phạm tội của mình và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an quận Nam Từ Liêm, Viện kiểm sát nhân dân quận Nam Từ Liêm và của Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Tại quá trình điều tra, bị cáo không có ý kiến khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện đều đúng quy định của pháp luật.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp lời khai tại cơ quan điều tra cùng các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Khong 12 giờ 50 phút ngày 27/8/2020, tại ngõ 14, đường Đ, M. T. H, M, N, Hà Nội, Lê Minh T đã có hành vi cất giấu 0,218 gam ma túy Methamphetamine mục đích để bán kiếm lời. Khi T đang đứng đợi, chưa kịp đưa ma tuý cho khách mua thì bị tổ công tác Công an phường M, Công an quận Nam Từ Liêm, Hà Nội phát hiện, bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi của bị cáo Lê Minh T đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo là hoàn toàn có căn cứ, đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền kiểm soát các chất ma túy của Nhà nước, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng. Bị cáo nhận thức rõ việc mua bán ma túy là vi phạm pháp luật, nhưng vẫn cố tình cất giấu ma túy để bán kiếm lời. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, áp dụng mức hình phạt tù giam cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.

Tuy nhiên khi lượng hình, Hội đồng xét xử xem xét bị cáo không có tiền án, tiền sự, phạm tội lần đầu, tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai nhận tội để cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015.

[4] Về hình phạt bổ sung: Các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy bị cáo không có nghề nghiệp, thu nhập ổn định vì vậy Hội đồng xét xử quyết định miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng vụ án đã bàn giao cho Chi cục thi hành án dân sự quận N là:

01 (một) phong bì niêm phong bên trong chứa ma túy, có chữ ký của Lê Minh T và giám định viên Vũ Việt C, đây là vật cấm lưu hành và không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy; Đối với 01 (một) xe máy Honda Wave α màu trắng, BKS:

29D2 – 282.39; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, loại máy Redmi K30i 5G, lắp sim số 0974791992 và 0358169023 bị cáo T sử dụng để làm phương tiện phạm tội. Xét đây là công cụ, phương tiện bị cáo T sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại Điều 47 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106, Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự 2015; Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Lê Minh T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo Lê Minh T 30 (ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/8/2020.

Xử lý vật chứng:

+ Tịch thu tiêu hủy một phong bì niêm phong bên trong có chứa ma túy, có chữ ký của Lê Minh T và giám định viên Vũ Việt C.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Xiaomi, loại máy Redmi K30i 5G, lắp sim số 0974791992 và 0358169023 của bị cáo Lê Minh T.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 (một) xe máy Honda Wave α màu trắng, BKS: 29D2 – 282.39 (Các vật chứng trên hiện Chi cục thi hành án dân sự quận N đang quản lý theo biên bản giao, nhận vật chứng số 80 ngày 04/12/2020).

Bị cáo Lê Minh T phải chịu 200.000 (Hai trăm nghàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

167
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 314/2020/HS-ST ngày 28/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:314/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Nam Từ Liêm - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về