Bản án 314/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 314/2019/HS-ST NGÀY 17/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 241/2019/TLST-HS ngày 22 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 303/2019/QĐXXST-HS ngày 21/6/2019 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Tuấn P; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh năm: 1993; Tại: Đồng Nai; Nơi cư trú: 178E, tổ 35, khu phố 4, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Thiên chúa; Trình độ học vấn: lớp 12/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Trần Minh H, sinh năm 1966 và bà Ngô Thị H, sinh năm 1968; Bị cáo là con thứ nhất trong gia đình có 02 anh em và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt để tạm giam ngày 15/3/2019, theo lệnh số 23 ngày 28/02/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B, đến ngày 08/4/2019 được hủy bỏ biện pháp tạm giam theo Quyết định số 2048/QĐ-VKSBH ngày 08/4/2019. Hiện bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú. Bị cáo có mặt.

2. Họ và tên: Nguyễn Văn C; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam; Sinh ngày 07/7/2002; Tại: Đồng Nai; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: số 10, tổ 19A, khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Chỗ ở hiện nay: Không nơi ở nhất định; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Trình độ học vấn: lớp 3/12; Nghề nghiệp: Không; Chức vụ (Đảng, chính quyền, đoàn thể): Không; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1967 (còn sông) và bà Huỳnh Thị Thanh G, sinh năm 1968 (còn sống); Bị cáo là con thứ ba trong gia đình có 03 chị em và chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không; Khi bị cáo phạm tội, Cơ quan Điều tra Công an thành phố B đã khởi tố và ra Lệnh câm đi khỏi nơi cư trú chờ xử lý. Sau đó, bị cáo bị bắt ngày 19/3/2019 để tạm giam theo lệnh số 29 ngày 19/3/2019 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố B trong một vụ án khác. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ thuộc Công an thành phố B. Bị cáo có mặt.

* Bị hi: Chị Nguyễn Thị T, sinh năm 1982.

Trú tại: 98/57, tổ 9, khu phố 3, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

* Người có quyền li, nghĩa v liên quan:

1/ Bà Ngô Thị H, sinh năm 1968.

Trú tại: 178E, tổ 35, khu phố 4, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

2/ Anh Nguyễn Nhật L, sinh năm 1978.

Trú tại: 98/57, tổ 9, khu phố 3, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

* Người đại din hợp pháp của b cáo Nguyễn Văn C:

1/ Ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1967.

Trú tại: số 10, tổ 19A, khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Vắng mặt.

2/ Bà Huỳnh Thị Thanh G, sinh năm 1968.

Trú tại: số 10, tổ 19A, khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

* Người bào chữa của bị cáo C: Ông Trần Hữu N - Luật sư của Văn phòng Luật sư Trần Hữu N thuộc Đoàn Luật sư tỉnh Đồng Nai. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ 00 ngày 15/12/2018, Trần Tuấn P gặp Nguyễn Văn C tại tiệm game bắn cá “Hiếu Bông” tại khu phố 3, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; P rủ C đến chơi tiệm game bắn cá “Bà Mỹ”, tại khu phố 2, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai thì C đồng ý. Khoảng 15 giờ 20 phút cùng ngày, P điều khiển xe mô tô của C (không rõ biển số) chở C đến tiệm game bắn cá “Bà Mỹ”. Trên đường đi, khi đi đến phía trước căn nhà số 98/57, tổ 9, khu phố 3, phường A, thành phố B, tỉnh Đồng Nai do chị Nguyễn Thị T là chủ nhà, P và C phát hiện 01 xe mô tô mang biển số 37H5-4059 nhãn hiệu Future dựng ở trước cửa cổng, trên tay lái bên phải của xe có treo 01 giỏ xách màu nâu không có người trông coi, nên P và C nảy sinh ý định trộm cắp. Để thực hiện hành vi, P dừng xe lại đứng bên ngoài cảnh giới, C lén lút đi đến chỗ dựng xe, lấy được giỏ xách của chị T và lên xe mô tô để P chở đi. Chị T phát hiện C và P trộm cắp tài sản nên truy hô, nhưng không đuổi kịp. Sau khi trộm cắp được số tài sản trên, P và C đến thuê nhà trọ “Lam Hồng” mở giỏ xách ra bên trong có các tài sản gồm: số tiền 33.000.000 đồng (Ba mươi ba triệu đồng), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, 01 điện thoại di động nhãn hiệu SamSung Galasy J8 màu vàng, 01 giấy chứng minh nhân dân và 02 thẻ ATM mang tên Nguyễn Thị T và 01 thẻ ATM mang tên Nguyễn Nhật L. P và C chia số tài sản vừa trộm cắp sản như sau: C được số tiền 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại di động Iphone 4S màu trắng; P được 14.500.000 đồng (Mười bốn triệu năm trăm nghìn đồng) và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galasy J8. Có được điện thoại P mang bán cho người không rõ họ tên và địa chỉ được 2.900.000 đồng (Hai triệu chín trăn nghìn đồng) và tiêu xài hết.

Sau khi sự việc xảy ra, chị T đến Công an phường A trình báo. Công an phường A lập hồ sơ chuyển giao Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B xử lý.

Vật chứng của vụ án:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, model A1387 qua kiểm tra, điện thoại bị hư hỏng nặng không kiểm tra được cấu hình, chủng loại nên Hội đồng thống nhất không định giá và đã giao trả lại cho chị T.

- 01 giấy CMND số 187608706 mang tên Nguyễn Thị T và 02 thẻ ATM đều mang tên Nguyễn Thị T đã được thu hồi giao trả cho chị T; 01 thẻ ATM mang tên Nguyễn Nhật L (chồng chị T) đã được thu hồi giao trả cho anh L.

- 01 chiếc giỏ xách màu nâu không thu hồi được, chị T không yêu cầu định giá và không yêu cầu bồi thường.

- 01 chiếc xe mô tô P và C dùng để thực hiện hành vi phạm tội, C đã bán cho người không rõ họ tên địa chỉ nên cơ quan điều tra không thu hồi được.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J8 Model SM-J810Y/DS, P đã bán cho người không rõ họ tên địa chỉ nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B không thu hồi được.

Về các vấn đề khác của vụ án: Tại bản kết luận định giá tài sản số: 13/TCKH-HĐĐG ngày 19 tháng 01 năm 2019 của Hội đồng định giá thành phố B đã kết luận: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J8 Model SM-J810Y/DS, có tổng giá trị tài sản định giá 5.032.000 đồng (Năm triệu không trăm ba mươi hai nghìn đồng).

Về dân sự: chị T yêu cầu bị cáo Nguyễn Văn C bồi thường số tiền 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng), còn đối với Trần Tuấn P thì gia đình bị cáo đã trả lại tài sản cho chị nên chị không yêu cầu bị cáo bồi thường.

Trong quá trình điều tra các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội theo như nội dung cáo trạng mô tả. Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của các bị cáo.

Tại bản cáo trạng số 249/CT-VKSBH ngày 16/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố bị cáo Trần Tuấn P và Nguyễn Văn C về tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Trần Tuấn P mức án từ 12 (Mười hai) tháng đến 18 (Mười tám) tháng tù giam.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C mức án từ 09 (Chín) đến 12 (Mười hai) tháng tù giam.

Các bị cáo nói lời sau cùng: Xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo sớm về gia đình.

Ông Trần Hữu N bào chữa cho bị cáo Nguyễn Văn C trình bày lời bào chữa: Thống nhất nội dung cáo trạng truy tố, tuy nhiên, về mức hình phạt đại diện Viện kiểm sát đưa ra quá nghiêm khắc, bị cáo C tuổi còn nhỏ, phạm tội khi chưa đủ 18 tuổi, trình độ học vấn thấp nên nhận thức pháp luật có nhiều hạn chế, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tại phiên tòa, bị cáo và người đại diện hợp pháp của bị cáo tự nguyện đồng ý bồi thường cho bị hại. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo bản án nặng về giáo dục và nhẹ về hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng trong hồ sơ vụ án: Cơ quan điều tra Công an thành phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra các bị cáo, người tham gia tố tụng khác và tại phiên tòa không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện theo quy định pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Trần Tuấn P và Nguyễn Văn C đã khai nhận: Khoảng 15 giờ ngày 15/12/2018, Trần Tuấn P và Nguyễn Văn C đã có hành vi trộm cắp số tiền 33.000.000 đồng (Ba mươi ba triệu đồng), 01 điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, 01 giấy chứng minh nhân dân và 03 thẻ ATM, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J8, có giá trị 5.032.000 đồng (Năm triệu không trăm ba mươi hai nghìn đồng) của chị Nguyễn Thị T. Sau khi sự việc xảy ra, chị T đến Công an phường A trình báo. Công an phường A lập hồ sơ chuyển giao Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố B xử lý.

Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án; lời khai của bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người làm chứng. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận hành vi của các bị cáo Trần Tuấn P và Nguyễn Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 như nội dung bản cáo trạng số 249/CT-VKSBH ngày 16/5/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố B đã truy tố là có cơ sở, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu về tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, làm mất an ninh trật tự trị an xã hội tại địa phương, gây hoang mang trong quần chúng nhân dân.

Về vai trò của từng bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn, giữa các bị cáo không có sự bàn bạc, tổ chức và thống nhất từ trước. Bị cáo P là người trưởng thành, có nhận thức, có khả năng lao động nuôi sống bản thân, nhưng không chịu tìm việc làm mà lại đi vào con đường phạm tội để có tiền tiêu xài. Khi cả hai bị cáo cùng phát hiện chiếc túi xách của chị T, P đã chủ động dừng xe và cảnh giới để bị cáo C xuống xe trộm cắp chiếc túi xách. Điều này thể hiện ý chí tích cực của cả hai bị cáo trong việc thực hiện hành vi phạm tội nên cả hai phải chịu trách nhiệm ngang nhau.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ: Khi lượng hình phạt đối với các bị cáo, xét thấy:

- Bị cáo Trần Tuấn P đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; đã bồi thường khắc phục hậu quả là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Bị cáo Nguyễn Văn C đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo có ông ngoại là người có công với cách mạng và được tặng thưởng huân chương kháng chiến. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, bị cáo C phạm tội khi dưới 18 tuổi nên Hội đồng xét xử áp dụng Điều 91, khoản 1 Điều 101 của Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 6 Điều 91 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo C phạm tội khi dưới 18 tuổi nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Theo khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sụ năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 thì bị cáo P còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng. Tuy nhiên, căn cứ vào tài liệu chứng cứ và lời khai tại phiên tòa cho thấy bị cáo P không có thu nhập và không có tài sản nào khác. Nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo p.

[4] Về trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, bà Huỳnh Thị Thanh G là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn C đồng ý bồi thường cho chị Nguyễn Thị T số tiền 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng) nên ghi nhận. Ngoài ra, tại phiên tòa chị T yêu cầu bị cáo C và người đại diện hợp pháp của bị cáo phải bồi thường chi phí sửa chữa chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, model A1387 qua kiểm tra, điện thoại bị hư hỏng nặng. Tuy nhiên, do chị T chưa cung cấp được các tài liệu, chứng cứ chứng minh về chi phí sửa chữa nên tách ra giải quyết trong vụ án Dân sự khác khi có yêu cầu.

[5] Về xử lý vật chứng:

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, model A1387; 01 giấy chứng minh nhân dân số 187608706 mang tên Nguyễn Thị T; 02 thẻ ATM đều mang tên Nguyễn Thị T đã giao trả cho chị T là phù hợp.

- 01 thẻ ATM mang tên Nguyễn Nhật L (chồng chị T) đã giao trả cho anh L là phù hợp.

- 01 giỏ xách màu nâu của chị T không thu hồi được, chị T không yêu cầu định giá và không yêu cầu bồi thường nên không đặt ra xem xét giải quyết.

- 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung Galaxy J8 của chị T, bị cáo P đã bán cho người không rõ họ tên địa chỉ nên cơ quan điều ứa không thu hồi được, gia đình bị cáo đã bồi thường giá trị chiếc điện thoại cho chị T, chị T không yêu cầu gì thêm nên không đặt ra xem xét giải quyết.

- 01 chiếc xe mô tô P và C dùng để thực hiện hành vi phạm tội, C đã bán cho người không rõ họ tên địa chỉ, cơ quan điều tra không thu hồi được nên tách ra tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

Lời trình bày của người bào chữa phù hợp một phần nhận định của Hội đồng xét xử về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sụ đối với bị cáo C, áp dụng quy định pháp luật người dưới 18 tuổi phạm tội nên chấp nhận một phần.

[6] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm; Ông Nguyễn Văn C và bà Huỳnh Thị Thanh G (là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn C) phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm là 925.000đồng (Chín trăm hai mươi lăm ngàn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Trần Tuấn P và Nguyễn Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Trần Tuấn P mức án 12 (Mười hai) tháng tù giam. Thời hạn tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án, nhưng được trừ những ngày đã bị tạm giữ trước đó từ ngày 15/3/2019 đến ngày 08/4/2019.

Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 58; khoản 1 Điều 101 Bộ luật Hình sụ năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017:

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn C mức án 09 (Chín) tháng tù giam. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/3/2019.

Áp dụng khoản 2 Điều 468; Điều 584; Điều 585 Bộ luật dân sự năm 2015:

Buộc bà Huỳnh Thị Thanh G và ông Nguyễn Văn C là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn C bồi thường cho chị Nguyễn Thị T số tiền 18.500.000 đồng (Mười tám triệu năm trăm nghìn đồng). Đối với số tiền là chi phí sửa chữa chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone 4S màu trắng, model A1387 tách ra giải quyết trong vụ án Dân sự khác khi chị T có yêu cầu.

Kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật, người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bên phải thi hành án không thi hành số tiền trên thì hàng tháng người phải thi hành án còn phải chịu thêm khoản tiền lãi theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành án.

Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135, khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội buộc mỗi bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm ngàn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Ông Nguyễn Văn C và bà Huỳnh Thị Thanh G (là người đại diện hợp pháp của bị cáo Nguyễn Văn C) phải chịu án phí Dân sự sơ thẩm là 925.000đồng (Chín trăm hai mươi lăm ngàn đồng).

Các bị cáo, người đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên, người bào chữa, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có mặt được kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đại diện hợp pháp của bị cáo chưa thành niên vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 kể từ ngày bản án được giao hoặc niêm yết theo quy định pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

200
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 314/2019/HS-ST ngày 17/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:314/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về