Bản án 313/2018/HNGĐ-ST ngày 10/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 313/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 10 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phố B xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 1341/2018/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 6 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 322/2018/QĐXX-ST ngày 31/7/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 580/2018/QĐST-HNGĐ ngày 17/8/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Hồ Thị Ngọc T, sinh năm 1984

Địa chỉ: Tổ 30, khu phố 2, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Minh T, sinh năm 1975

Địa chỉ: 1/5B, tổ 21, khu phố 4, phường B, thành phố B, tỉnh Đồng Nai.

(Bà T có đơn xin vắng mặt, ông T vắng mặt không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo nguyên đơn bà Hồ Thị Ngọc T trình bày:

Bà và ông Nguyễn Minh T xây dựng gia đình với nhau vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã P, huyện C, tỉnh L, hôn nhân hoàn toàn tự nguyện, không có sự áp đặt, cưỡng ép của gia đình. Quá trình chung sống phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp, thường xuyên cãi nhau. Mặc dù cả hai đã nhiều lần tìm cách giải quyết mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông T.

Về con chung: Quá trình chung sống bà và ông T có 03 cháu là Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 30/12/2004, cháu Nguyễn Thị Ngọc Q, sinh ngày 14/7/2007, cháu Nguyễn Tấn P, sinh ngày 28/11/2012. Ly hôn bà xin nuôi dưỡng 03 cháu và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung

Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa giải quyết.

Nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Nguyễn Minh T mặc dù đã được Tòa án tống đạt, triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến của mình về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bà Hồ Thị Ngọc T có đơn xin xét xử vắng mặt và Tòa án đã tống đạt, triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng ông Nguyễn Minh T vẫn vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà T, ông T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1 và khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Vào ngày 11 tháng 01 năm 2011 bà Hồ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Minh T đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã P, huyện C, tỉnh L nên áp dụng các Điều 9, 11, 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 xác định quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, bà T khởi kiện vụ án xin ly hôn

[3] Về yêu cầu xin ly hôn của bà T xét thấy: Theo bà T trình bày thì nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn giữa hai vợ chồng là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hòa hợp nên thường xuyên cãi nhau và không còn tình cảm. Tòa án nhân dân TP. B đã triệu tập hợp lệ rất nhiều lần nhưng ông T vẫn cố tình vắng mặt không có lý do và cũng không thể hiện quan điểm của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của bà T. Do ông T vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nên Toà án không thể tiến hành hoà giải đoàn tụ được. Điều này chứng tỏ ông T cũng không còn quan tâm đến hạnh phúc gia đình, không cố gắng khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng có thể hàn gắn, đoàn tụ.

Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được động viên hòa giải nhiều lần nhưng bà T vẫn kiên quyết xin ly hôn với ông T. Điều này thể hiện mâu thuẫn giữa vợ chồng bà T đã trầm trọng, cả hai đều không tìm cách hàn gắn quan hệ vợ chồng, không quan tâm đến nhau dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của bà T, cho bà T được ly hôn với ông T.

[4] Về con chung: Trong quá trình chung sống bà T và ông T có 03 con chung tên là Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 30/12/2004, cháu Nguyễn Thị Ngọc Q, sinh ngày 14/7/2007, cháu Nguyễn Tấn P, sinh ngày 28/11/2012. Bà T yêu cầu được nuôi dưỡng cháu M, cháu Q và cháu P đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét thấy, Tòa án đã triệu tập nhiều lần để ông T có ý kiến về việc nuôi dưỡng cháu M, cháu Q và cháu P. Nhưng ông T không đến làm việc nên không có ý kiến đối với việc nuôi dưỡng các cháu. Vì vậy, giao các cháu Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 30/12/2004, cháu Nguyễn Thị Ngọc Q, sinh ngày 14/7/2007, cháu Nguyễn Tấn P, sinh ngày 28/11/2012 cho bà Hồ Thị Ngọc T nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T được quyền đi lại thăm nuôi con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Theo bà T trình bày thì về tài sản và nợ chung ông bà không có. Tuy nhiên, do chưa có ý kiến của ông T về các vấn đề này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Bà T phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

[7] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố B phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, riêng bị đơn không chấp hành đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà T; Về con chung: Giao các cháu là Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 30/12/2004, cháu Nguyễn Thị Ngọc Q, sinh ngày 14/7/2007, cháu Nguyễn Tấn P, sinh ngày  28/11/2012 cho bà T nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành. Ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết; Về án phí: bà T phải nộp án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 ; Điều 235; Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng Điều 9, Điều 11, Điều 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000;

- Áp dụng các Điều 51, 54, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, khoản 1 Điều 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

- Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa bà Hồ Thị Ngọc T và ông Nguyễn Minh T.

- Về nuôi con chung: Giao các cháu là Nguyễn Thị Ngọc M, sinh ngày 30/12/2004, cháu Nguyễn Thị Ngọc Q, sinh ngày 14/7/2007, cháu Nguyễn Tấn P, sinh ngày 28/11/2012 cho bà Hồ Thị Ngọc T nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành, tạm thời ông T không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Ông T được quyền đi lại thăm nuôi con chung không ai được cản trở.

Vì quyền lợi của trẻ khi cần thiết các bên được quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con chung và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

- Về tài sản chung và nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết.

- Án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà T phải nộp 300.000đ án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định được trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí bà T đã nộp theo biên lai thu số 007483 ngày 28/5/2018 của Chi cục Thi hành án Dân sự thành phố B.

Bà T và ông T được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

157
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 313/2018/HNGĐ-ST ngày 10/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:313/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về