Bản án 312/2021/DS-PT ngày 27/05/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 312/2021/DS-PT NGÀY 27/05/2021 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT 

Ngày 27 tháng 5 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 49/2021/TLPT- DS ngày 11 tháng 01 năm 2021 về việc “Tranh chấp quyền sử dụng đất”.

Do Bản án dân sự sơ thẩm số 30/2020/DS-ST ngày 28/07/2020 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang bị kháng cáo.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 366/2021/QĐ-PT ngày 10 tháng 03 năm 2021 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1952. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn: Bà Lê Lâm T, sinh năm 1970. Địa chỉ thường trú: Số 2xx đường cặp R, tổ 1xx khóm Đ 8, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang. Địa chỉ liên hệ: Số 16 L, phường M, thành phố L, tỉnh An Giang (có mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1981. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

Người đại diện theo ủy quyền của bị đơn: Ông Châu Thanh B, sinh năm 1976. Địa chỉ: Số 1xxA, đường C, phường C, quận N, thành phố Cần Thơ (có mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. Ông Võ Phú H, sinh năm 1971. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

2. Bà Võ Thị Ngọc H, sinh năm 1974. Địa chỉ: Ấp T, xã M, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

3. Ông Võ Phú H1, sinh năm 1975 (có mặt);

4. Ông Võ Phú H2, sinh năm 1978 (có mặt);

5. Ông Võ Phú H3, sinh năm 1981 (vắng mặt).

6. Ông Võ Phú H4, sinh năm 1982 (vắng mặt).

7. Ông Võ Phú H5, sinh năm 1984 (vắng mặt).

8. Ông Võ Phú Hiệu E, sinh năm 1989 (vắng mặt).

Cùng địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang.

9. Ủy ban nhân dân huyện C, tỉnh An Giang. Địa chỉ: Thị trấn C, huyện C, tỉnh An Giang (vắng mặt).

- Người kháng cáo: Bị đơn ông Nguyễn Thanh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị P trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp của ông Võ Văn K (chết), sau đó con ruột, con dâu và cháu nội là ông Võ Trí T, bà Trương Thị M, ông Võ Hoài P (ba H), ông Trần Quang M có sang nhượng đất vườn, đất ruộng cho ông Võ Văn H (cháu ruột ông K, chồng bà P) với giá 1.600.000 đồng, (có làm tờ nhượng quyền sở hữu đất ngày 20/9/1988). Sau khi sang nhượng ông Võ Văn H san lấp, trang trải đất để cất nhà, trồng cây lâu năm đến nay hơn 30 năm không ai tranh chấp vì đất có trụ đá và hàng rào lưới B40.

Sau khi chồng bà Nguyễn Thị P chết, năm 2017 bà Nguyễn Thị P kê khai đăng ký quyền sử dụng đất thì phát hiện đất bà đang sử dụng có một phần nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thanh T ngang mặt tiền khoảng 0,8m, ngang mặt hậu khoảng 0,3m, chiều dài khoảng 120m, bà Nguyễn Thị P có yêu cầu ông Nguyễn Thanh T điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho đúng diện tích đất đang sử dụng thì ông Nguyễn Thanh T không đồng ý. Nay bà Nguyễn Thị P yêu cầu ông Nguyễn Thanh T trả lại diện tích đất đã lấn chiếm nêu trên, đồng thời bà Nguyễn Thị P yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02124 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 11 tháng 4 năm 2014, thửa số 01, tờ bản đồ số 80, diện tích 4.420,8m2 cho ông Nguyễn Thanh T.

Đất tranh chấp tọa lạc ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang.

Đại diện theo ủy quyền của bị đơn, ông Châu Thanh B trình bày:

Nguồn gốc đất tranh chấp là của ông Nguyễn Văn M (là ông nội ông Nguyễn Thanh T) đã chết, cho lại cha ông Nguyễn Thanh T tên Nguyễn Ngọc C (đã chết), cho vào năm 1980 đến năm 2001 ông Nguyễn Ngọc C làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên Nguyễn Ngọc C. Sau khi ông Nguyễn Ngọc C chết, gia đình ông Nguyễn Ngọc C thống nhất sang tên lại cho ông Nguyễn Thanh T, ông Nguyễn Thanh T được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02124 11/4/2014, thửa số 01, tờ bản đồ số 80, diện tích 4.420,8m2 loại đất ở và đất cây lâu năm khác.

Trên đất ông Nguyễn Thanh T trồng cây lâu năm (xoài) và căn nhà xây dựng đã lâu (cách đây khoảng 20 năm), sau đó hư cũ ông Nguyễn Thanh T đã sửa chữa, trong nhà có các thành viên bao gồm: Nguyễn Thị Bạch Y, sinh năm 1956; Phạm Phương L, sinh năm 1986; Nguyễn Khánh N, sinh năm 2016 hiện đang sinh sống.

Do được Uỷ ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đúng quy định pháp luật, đúng diện tích nên không đồng ý yêu cầu của bà Nguyễn Thị P. Ngoài ra ông Nguyễn Thanh T có yêu cầu phản tố, yêu cầu bà Nguyễn Thị P trả lại diện tích đất lấn chiếm chiều ngang mặt tiền 0,8m, ngang mặt hậu khoảng 0,4m, dài 174m. Đất tọa lạc tại ấp T, xã T, huyện C, tỉnh An Giang.

Đối với hàng rào lưới B40 chỉ là hàng rào tạm để giữ tài sản chứ không phải là ranh đất.

Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Võ Phú H, bà Võ Thị Ngọc H, ông Võ Phú H1, ông Võ Phú H2, ông Võ Phú H3, ông Võ Phú H4, ông Võ Phú H5 và ông Võ Phú Hiệu E thống nhất trình bày:

Thống nhất với lời trình bày và yêu cầu của bà Nguyễn Thị P (tất cả đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, Ủy ban nhân dân huyện C trình bày:

Hồ sơ của ông Nguyễn Ngọc C được Hội đồng xét cấp giấy xã Tấn Mỹ thống nhất xét cấp và trình Uỷ ban nhân dân huyện C tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Ngọc C.

Ngày 04/12/2001, ông Nguyễn Ngọc C được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03913/fB, diện tích 4.420,8m2 đất ở nông thôn và đất trồng cấy lâu năm thuộc bản đồ số 01, thửa số 80, trong đó bao gồm diện tích 97,7m2 mà bên gia đình ông Võ Văn H đang sử dụng.

Do đó việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03913/fB, diện tích 4.420,8m2 đất ở nông thôn và đất trồng cấy lâu năm thuộc bản đồ số 01, thửa số 80 cho ông Nguyễn Ngọc C là chưa đúng diện tích.

Năm 2013 ông Nguyễn Ngọc C chết, năm 2014 vợ và các con ông Nguyễn Ngọc C đồng ý thỏa thuận phân chia di sản thừa kế và hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất (riêng) cho người con út là ông Nguyễn Thanh T đứng tên. Ngày 11/4/2014 ông Nguyễn Thanh T được Uỷ ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02124, diện tích 4.420,8m2 đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm. Tuy nhiên tại Điểm d Khoản 2 Điều 106 Luật đất đai năm 2013 quy định, không thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với các trường hợp được cấp giấy chứng nhận đó đã thực hiện chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Do đó Uỷ ban nhân dân huyện C đề nghị Tòa án xét xử theo quy định pháp luật.

Tại bản án dân sự số 30/2020/DS-ST ngày 28 tháng 7 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang đã quyết định:

Căn cứ: Khoản 9 Điều 26, Khoản 4 Điều 34, Điều 200, Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P, do bà Nguyễn Thị P không yêu cầu ông Nguyễn Thanh T trả lại diện tích đất lấn chiếm.

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02124, ngày 11/4/2014 do Uỷ ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Thanh T diện tích 4.420,8m2 bao gồm đất ở nông thôn và đất trồng cấy lâu năm để điều chỉnh lại diện tích đất theo các mốc 1, 2, 3, 4 (ngang mặt tiền 0,83m, ngang mặt hậu 0,31m, dài 173,66m), thể hiện theo bản hiện trạng khu đất tranh chấp ngày 14/6/2019 của Văn phòng Đăng ký đất đai Chi nhánh Chợ Mới.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Thanh T về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị P phải trả lại diện tích đất lấn chiếm ngang mặt tiền 0,83m, ngang mặt hậu 0,31m, dài 173,66m, tổng diện tích 97,7m2 theo bản trích đo hiện trạng khu đất tranh chấp ngày 14/6/2019 của Văn phòng Đăng ký đất đai Chi nhánh Chợ Mới.

Các đương sự có nghĩa vụ đến cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.

Ngoài ra án sơ thẩm còn tuyên về chi phí tố tụng, án phí sơ thẩm, quyền kháng cáo của các đương sự theo luật định.

Ngày 11/8/2020 ông Nguyễn Thanh T kháng cáo toàn bộ bản án 30/2020/DS- ST ngày 28 tháng 7 năm 2020 của Toà án nhân dân tỉnh An Giang. Đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm giải quyết buộc phía nguyên đơn phải tháo dỡ hàng rào và trả lại phần đất lấn chiếm cho bị đơn.

Tại đơn kháng cáo và trước phiên tòa phúc thẩm bị đơn ông Nguyễn Thanh T giữ nguyên yêu cầu kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xử buộc phía nguyên đơn phải tháo dỡ hàng rào và trả lại phần đất lấn chiếm cho bị đơn.

Đại diện bị đơn đề nghị Hội đồng xét xử xử chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T với lý do: Đất của ông Nguyễn Thanh T là đất của người thứ ba ngay tình. Mặt khác, đất tranh chấp ông Nguyễn Thanh T đã sử dụng lâu dài, ổn định, bà Nguyễn Thị P không hề tranh chấp đã lâu. Tòa án sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị P là không đúng. Đề nghị Hội đồng xét xử bác yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P.

Nguyên đơn bà Nguyễn Thị P đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Đại diện nguyên đơn trình bày: Phía nguyên đơn không có yêu cầu đòi tài sản chỉ yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp không đúng. Ủy ban nhân dân huyện đã xác định việc cấp đất là không đúng. Tòa án sơ thẩm xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là có cơ sở. Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh đề nghị Hội đồng xét xử phúc thẩm xử không chấp nhận kháng cáo của bị đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã thu thập có tại hồ sơ vụ án và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, sau khi nghe ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1]. Nguyên đơn bà Nguyễn Thị P khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bị đơn ông Nguyễn Thanh T phải trả lại phần diện tích đất lấn chiếm và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân huyện C đã cấp cho ông Nguyễn Thanh T để điều chỉnh lại diện tích đất đúng với hiện trạng hai bên đang sử dụng.

[2]. Ông Nguyễn Thanh T có yêu cầu phản tố, cho rằng diện tích đất theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được UBND huyện C cấp cho ông là đúng diện tích, đúng quy định của pháp luật. Do đất của ông còn bên phía hàng rào của bà Nguyễn Thị P có diện tích ngang mặt tiền khoảng 0,8m, ngang mặt hậu khoảng 0,4m và dài 174m. Ông yêu cầu phía bà Nguyễn Thị P phải tháo dỡ hàng rào, vật kiến trúc để trả lại diện tích đất lấn chiếm.

[3]. Tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và bác yêu cầu phản tố của bị đơn. Xét kháng cáo của bị đơn ông Nguyễn Thanh T, xét thấy:

[3.1]. Nguồn gốc đất đang tranh chấp là của ông Võ Văn K, sau khi ông Khánh chết, năm 1988 ông Võ Văn H (chồng của bà Nguyễn Thị P) có sang nhượng phần đất vườn và đất ruộng với con, dâu và cháu nội của ông Khánh là ông Võ Trí T, bà Trương Thị M, ông Võ Hoài P, ông Trần Quang M. Sau khi sang nhượng, ông Võ Văn H có san lấp, trang trải đất để cất nhà, trồng cây lâu năm.

[3.2]. Năm 2000 có đoàn đo đạc đại trà, ông Nguyễn Ngọc C (cha ông Nguyễn Thanh T) có yêu cầu đo đạc phần đất của mình, khi đó ông Võ Văn H có chỉ ranh giới đất (theo biên bản xác định ranh giới, mốc giới khu đất ngày 07/7/2000), sơ đồ thể hiện tiếp giáp liên xã 26,27m, hậu 21,58m, diện tích 4.420,8m2.

Ngày 13/01/2001 ông Nguyễn Ngọc C có kê khai đăng ký quyền sử dụng đất thì xảy ra tranh chấp ranh đất với ông Võ Văn H.

[3.3]. Tại biên bản hòa giải ngày 02/8/2001 của Ban ấp Tấn Quới, xã Tấn Mỹ, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang thì ông Võ Văn H và ông Nguyễn Ngọc C thống nhất hòa giải, thống nhất xác định lại ranh đất của hai bên và tiến hành kéo dây trồng trụ đá, kéo lưới B40 phân định ranh đất của hai bên có sự chứng kiến của ban ấp Tấn Quới. Đất của mỗi bên quản ly và sử dụng ổn định cho đến nay.

[3.4] Do các đương sự không thông báo đến cơ quan đo đạc hoặc cơ quan có thẩm quyền về kết quả hòa giải về ranh đất ngày 02/8/2001 nên Hội đồng xét cấp giấy của xã Tấn Mỹ thống nhất xét cấp và trình UBND huyện C tiến hành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Ngọc C theo biên bản xác định ranh giới, mốc giới ngày 07/7/2000. Theo đó ông Nguyễn Ngọc C được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau khi ông Nguyễn Ngọc C chết gia đình ông Nguyễn Ngọc C thống nhất sang tên lại cho ông Nguyễn Thanh T và ông Nguyễn Thanh T được UBND huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 02124 ngày 11/4/2014.

[3.5]. Tòa án cấp sơ thẩm đã tiến hành đo đạc phần đất tranh chấp. Theo kết quả đo đạc, xem xét thẩm định tại chỗ thể hiện diện tích đất tranh chấp ngang mặt tiền 0,83m, ngang mặt hậu 0,31m, dài 173,66m, tổng diện tích 97,7m2 đều nằm bên hàng rào của bà Nguyễn Thị P và từ năm 2001 đến nay bà Nguyễn Thị P quản lý, sử dụng đúng biên bản hòa giải ngày 02/8/2001. Nhưng do không đăng ký biến động lại nên diện tích đất 97,7m2 vẫn nằm trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thanh T và UBND huyện C cũng xác định trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Thanh T có 97,7m2 đất của bà Nguyễn Thị P.

[4]. Như vậy, việc bà Nguyễn Thị P yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH02124 ngày 11/4/2014 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Thanh T để điều chỉnh lại diện tích đất thực tế các bên sử dụng là có cơ sở.

[5]. Như đã phân tích ở trên nên yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Thanh T yêu cầu bà Nguyễn Thị P phải trả lại phần đất diện tích ngang mặt tiền 0,83m, ngang mặt hậu 0,31m, dài 173,66m là không có cơ sở.

[6]. Tại đơn kháng cáo và trước phiên tòa phúc thẩm ông Nguyễn Thanh T không xuất trình được chứng cứ mới nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T nên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

[7]. Các quyết định khác của bản án dân sự sơ thẩm không có kháng cáo kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh T và giữ nguyên bản án sơ thẩm:

Căn cứ khoản 9 Điều 26, khoản 4 Điều 34, Điều 200, Điều 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự Xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị P: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CH 02124 ngày 11/4/2014 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp cho ông Nguyễn Thanh T diện tích 4.420,8m2 bao gồm đất ở nông thôn và đất trồng cây lâu năm để điều chỉnh lại diện tích đất theo các mốc 1, 2, 3, 4 (ngang mặt tiền 0,83m, ngang mặt hậu 0.31m, dài 173,66m) thể hiện theo bản vẽ hiện trạng khu đất tranh chấp ngày 14/6/2019 của Văn phòng đăng ký đất đai Chi nhánh Chợ Mới.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Nguyễn Thanh T về việc yêu cầu bà Nguyễn Thị P phải trả lại diện tích đất lấn chiếm ngang mặt tiền 0,83m, ngang mặt hậu 0,31m, dài 173,66m, tổng diện tích 97,7m2 theo bản trích đo hiện trạng khu đất tranh chấp ngày 14/6/2019 của Văn phòng Đăng ký đất đai Chi nhánh Chợ Mới.

Các đương sự có nghĩa vụ đến cơ quan có thẩm quyền thực hiện việc điều chỉnh giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quv định của pháp luật.

3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật.

4. Án phí dân sự phúc thẩm ông Nguyễn Thanh T phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng được khấu trừ vào số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng ông Nguyễn Thanh T đã nộp tại biên lai thu số 0005295 ngày 11/8/2020 của Cục Thi hành án dân sự tỉnh An Giang.

Bản án này có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 312/2021/DS-PT ngày 27/05/2021 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:312/2021/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về