Bản án 31/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGÂN SƠN, TỈNH BẮC KẠN

BẢN ÁN 31/2020/HS-ST NGÀY 25/12/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 25 tháng 12 năm 2020, tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số:32/2020/TLST-HS ngày 24 tháng 11 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 32/2020/QĐXXST-HS ngày 11 tháng 12 năm 2020 đối với các bị cáo:

1. Lô Xuân H (Tên gọi khác: Không có), sinh ngày 22 tháng 4 năm 1980 tại huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Nơi cư trú: Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ học vấn: 12/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lô Xuân Sl (tên gọi khác: Lô Xuân R, Lô Xuân L, Lô Văn R), sinh năm 1946 và bà Đinh Thị Ch, sinh năm 1949; Bị cáo có vợ là Hoàng Thị L, sinh năm 1985 và 02 con (con lớn sinh năm 2007, con nhỏ sinh năm 2018); Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.

2. Hạ Văn T (Tên gọi khác: Không), sinh ngày 30 tháng 4 năm 1992 tại huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Nơi cư trú: Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn: 10/12; Dân tộc: Nùng; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Hạ Chí T, sinh năm 1952 và bà Dương Thị M, sinh năm 1956; Bị cáo chưa có vợ, con; Tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/8/2020. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn. Có mặt tại phiên tòa.

- Người bào chữa cho các bị cáo Lô Xuân H và Hạ Văn T: Ông Sầm Đức Tùng – Trợ giúp viên pháp lý Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Bắc Kạn (Có mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1991 – Trú tại: Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn (Vắng mặt).

- Người làm chứng:

Anh Hoàng Văn H1, sinh năm 1991 – Trú tại: Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn.

Anh Lý Văn Q, sinh năm 1984 - Trú tại: Thôn B, xã Đ, huyện N, tỉnh Bắc Kạn.

Anh Lê Văn K, sinh năm 1980 – Trú tại: Xóm 5, xã Ng, huyện N, tỉnh Nam Những người làm chứng đều vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 06 giờ ngày 04/8/2020 tại Trạm y tế xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác của Ủy ban nhân dân xã B tiến hành xét nghiệm ma túy đối với Hoàng Văn H1, sinh năm 1991, trú tại Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn phát hiện H1 dương tính với chất ma túy (heroine).

Hoàng Văn H1 khai nhận: Khoảng 23 giờ ngày 03/8/2020, H1 có sử dụng ma túy (heroine) với hình thức hít. Nguồn gốc số ma túy H1 có để sử dụng là do H1 mua với H (H1 không biết họ và tên đệm) có vợ tên là L, nhà ở Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn 01 (một) gói nhỏ ma túy với số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) vào khoảng 20 giờ ngày 03/8/2020 tại rìa đường Quốc lộ 3 thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, H1 gọi điện thoại trước cho H để trao đổi mua bán ma túy.

Hồi 07 giờ 30 phút ngày 04/8/2020, tại nhà ông Hạ Chí T thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, tổ công tác Công an huyện Ngân Sơn phát hiện và bắt quả tang Hạ Văn T, sinh năm 1992 (con ông Hạ Chí T) đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, tang vật thu giữ: 07 (bảy) gói nhỏ chất bột màu trắng được gói bằng 01 (một) lớp giấy ăn đựng trong 01 (một) vỏ bao thuốc lá để ở đầu giường T đang ngủ (niêm phong trong phong bì ký hiệu T1) và 01 (một) điện thoại di động.

Hạ Văn T khai nhận: Số chất bột màu trắng mà Cơ quan Công an thu giữ là ma túy (heroine) của T, do T mua về để sử dụng và bán cho các đối tượng nghiện khi họ hỏi mua (không chia ra cụ thể phần nào sử dụng, phần nào bán). Cụ thể, T mua với một người đàn ông tên H (không biết họ, tên đệm) có vợ tên là L, nhà ở Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn 02 (hai) lần, mỗi lần 01 (một) gói nhỏ ma túy với số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) mỗi gói vào khoảng 12 giờ ngày 02/8/2020 và khoảng 21 giờ ngày 03/8/2020, địa điểm tại rìa đường Quốc lộ 3 thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn.

Hồi 09 giờ 20 phút ngày 04/8/2020, Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn tiến hành khám xét khẩn cấp người, chỗ ở và khu vực liên quan đối với Hạ Văn T tại Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, kết quả không phát hiện, thu giữ đồ vật, tài liệu gì.

Hồi 10 giờ 10 phút ngày 04/8/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn tiến hành khám xét khẩn cấp người, nhà ở và khu vực liên quan của Lô Xuân H, sinh năm 1980, trú tại Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Kết quả khám xét phát hiện và thu giữ: 01 (một) gói chất bột màu trắng dạng cục đã bị vỡ vụn một phần được gói bằng một lớp nilon màu đen tại dưới nền nhà sát tường bên phải gần cửa phòng từ ngoài nhìn vào của phòng ngủ đầu tiên bên trái từ cửa chính nhìn vào trong nhà H (niêm phong trong phong bì ký hiệu A1), 01 (một) cân điện tử, 02 (hai) điện thoại di động và số tiền 2.140.000đ (hai triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng).

Tại Biên bản mở đóng niêm phong cân xác định trọng lượng (khối lượng) hồi 14 giờ ngày 04/8/2020 xác định: Phong bì niêm phong ký hiệu T1 bên trong có 07 (bảy) gói nhỏ chất bột màu trắng dạng nén đã bị vỡ vụn nghi là Heroine, trong đó có 01 (một) gói được gói bằng một lớp giấy mặt bên trong màu trắng, mặt bên ngoài mạ kim loại màu vàng, 06 (sáu) gói còn lại mỗi gói được gói bằng một lớp giấy có họa tiết hoa văn, tất cả 07 (bảy) gói trên được gói trong một lớp giấy màu trắng (loại giấy ăn). Cân riêng số chất bột màu trắng có khối lượng 0,50g (không phẩy năm không gam), niêm phong trong 01 (một) phong bì mới gửi giám định ký hiệu M1.

Tại Biên bản mở đóng niêm phong cân xác định trọng lượng (khối lượng) hồi 14 giờ 30 phút ngày 04/8/2020 xác định: Phong bì niêm phong ký hiệu A1 bên trong có 01 (một) gói nhỏ chất bột màu trắng dạng cục, đã bị vỡ vụn một phần được gói bằng 01 (một) lớp nilon màu đen. Cân riêng số chất bột màu trắng có khối lượng 3,41g (ba phẩy bốn một gam), niêm phong trong 01 (một) phong bì mới gửi giám định ký hiệu N1.

Tại Kết luận giám định số 130 ngày 10/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu M1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 0,50g (không phẩy năm không gam)”.

Tại Kết luận giám định số 131 ngày 12/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: “Mẫu chất màu trắng dạng cục bột trong phong bì ký hiệu N1 gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là: 3,41g (ba phẩy bốn một gam)”.

Quá trình điều tra, truy tố, Lô Xuân H khai nhận: 01 (một) gói nhỏ ma túy mà cơ quan Công an thu giữ khi khám xét tại nhà H là chất ma túy (heroine) của H, do H mua về để sử dụng cá nhân và để bán cho các đối tượng nghiện khác khi họ hỏi mua (không chia ra cụ thể phần nào để sử dụng và phần nào để bán). Cụ thể, khoảng 19 giờ ngày 01/8/2020, tại rìa đường Quốc lộ 3 cách nhà Hòa 50m (năm mươi mét) thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, H mua với 01(một) người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ, khoảng 40 tuổi 01 (một) gói nhỏ ma túy với số tiền 3.500.000đ (ba triệu năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được ma túy, H đã sử dụng và bán cho 02 (hai) người, cụ thể:

- Bán cho T (H không biết họ, tên đệm) nhà ở cùng Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn 02 (hai) lần:

+ Lần 1: Khoảng 12 giờ ngày 02/8/2020 tại rìa đường Quốc lộ 3 gần nhà H thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, H bán cho T 01 (một) gói nhỏ ma túy (heroine) với số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng).

+ Lần 2: Khoảng 21 giờ ngày 03/8/2020 cũng tại địa điểm trên, H bán cho T 01 (một) gói nhỏ ma túy (heroine) với số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng).

Cả hai lần, T đều gọi điện thoại trước cho H để trao đổi, mua bán ma túy.

- Bán cho H1 (H không biết họ, tên đệm) nhà ở cùng Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn 01 (một) lần 01 (một) gói nhỏ ma túy (heroine) với số tiền 100.000đ (một trăm nghìn đồng) vào khoảng 20 giờ ngày 03/8/2020 tại rìa đường Quốc lộ 3 đoạn gần nhà H thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. H1 gọi điện thoại trước cho H để trao đổi, mua bán ma túy.

Tổng số tiền có được từ việc bán ma túy là 2.100.000đ (hai triệu một trăm nghìn đồng) H chưa tiêu dùng đến (nằm trong số tiền cơ quan Công an đã tạm giữ khi khám xét đối với H).

Hạ Văn T khai nhận: Sau khi có được ma túy mua từ H vào khoảng 12 giờ ngày 02/8/2020, T được sử dụng và bán 02 (hai) lần 02 (hai) gói nhỏ ma túy cho 02 (hai) người, cụ thể:

+ Vào khoảng 16 giờ ngày 02/8/2020 tại rìa đường Quốc lộ 3 thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, bán cho Q (không biết họ, tên đệm) nhà ở Thôn B, xã Đ, huyện N, tỉnh Bắc Kạn 01 (một) gói nhỏ ma túy với số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

+ Vào khoảng 11 giờ ngày 03/8/2020 tại rìa đường Quốc lộ 3 thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, bán cho K (không biết họ, tên đệm, địa chỉ) làm thợ xây tại thôn C, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn 01 (một) gói nhỏ ma túy với số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

Số ma túy còn lại là 01 (một) gói nhỏ được gói bằng một lớp giấy mặt bên trong màu trắng, mặt bên ngoài mạ kim loại màu vàng nằm trong tổng số 07 (bảy) gói ma túy mà cơ quan Công an thu giữ của T ngày 04/8/2020.

Đối với số ma túy mua được từ H vào khoảng 21 giờ ngày 03/8/2020, T đem về chia làm nhiều gói nhỏ và đã sử dụng một phần, chưa bán cho ai, số ma túy còn lại là 06 (sáu) gói nhỏ mỗi gói được gói bằng một lớp giấy có họa tiết hoa văn nằm trong tổng số 07 (bảy) gói ma túy mà cơ quan Công an thu giữ của T ngày 04/8/2020.

Ngoài ra trước đó, vào khoảng 08 giờ ngày 30/7/2020, T được mua với một người đàn ông khoảng 40 tuổi (không biết tên, tuổi, địa chỉ) 01 (một) gói nhỏ ma túy với giá 500.000đ (năm trăm nghìn đồng) tại khu vực bãi rác thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn. Số ma túy này, T được sử dụng và bán cho Q và K (hai người đã nêu ở trên) tổng cộng 03 (ba) lần (hiện số ma túy đã hết), cụ thể:

+ Bán cho Q 01 (một) lần 01 (một) gói nhỏ ma túy với số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) vào khoảng 16 giờ ngày 31/7/2020 tại rìa đường Quốc lộ 3 thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn.

+ Bán cho K 02 (hai) lần 02 (hai) gói nhỏ ma túy với số tiền 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) mỗi gói vào khoảng 11 giờ ngày 30/7/2020 và khoảng 11 giờ ngày 01/8/2020 tại rìa đường Quốc lộ 3 thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn.

Các lần mua ma túy, Q và K đều gọi điện trước cho T để trao đổi.

Tổng số tiền có được từ các lần bán ma túy là 1.000.000đ (một triệu đồng) T đã tiêu xài cá nhân hết.

Cơ quan điều tra đã mời Lý Văn Q, sinh năm 1984, trú tại Thôn B, xã Đ, huyện N, tỉnh Bắc Kạn và Lê Văn K, sinh năm 1980, trú tại Xóm 5, xã N, huyện N, tỉnh Nam Định lên làm việc. Tại cơ quan điều tra, Q và K đã khai nhận bản thân được mua ma túy (heroine) với Hạ Văn T để sử dụng phù hợp với lời khai của T về thời gian, địa điểm và phương thức trao đổi, mua bán ma túy.

Tại bản cáo trạng số 32/CT-VKSNS, ngày 24 tháng 11 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn đã truy tố các bị cáo Lô Xuân H và Hạ Văn T về tội: “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn giữ nguyên quan điểm truy tố.

* Về trách nhiệm hình sự:

- Về hình phạt chính: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Lô Xuân H phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 04/8/2020.

Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị Hạ Văn T phạm tội: “Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng điểm b, khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Xử phạt bị cáo từ 07 năm đến 08 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 04/8/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

* Về xử lý vật chứng, đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 106 BLTTHS; Khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự: Tịch thu tiêu hủy các phong bì niêm phong mẫu hoàn trả, nilon gói cũ và phong bì niêm phong cũ ký hiệu T131, N2 của Lô Xuân H và T130, M2 của Hạ Văn T; 03 sim điện thoại di động số 0977323042;

0961335804; 0399616692; 01 cân điện tử.

Tịch thu hóa giá sung quỹ nhà nước 01 điện thoại di động trong phong bì niêm phong ký hiệu M1 của Lô Xuân H, 01 điện thoại di động trong phong bì niêm phong ký hiệu A1 của Hạ Văn T; Tịch thu nộp ngân sách Nhà nước số tiền 2.100.000 đồng của Hòa do bán ma túy mà có; Trả lại cho Lô Xuân H 01 điện thoại di động được niêm phong trong phong bì ký hiệu A4 và số tiền 400.000 đồng. Truy thu số tiền 1.000.000 đồng của Hạ Văn T do bán ma túy mà có.

* Về trách nhiệm dân sự: Không.

* Về án phí: Áp dụng Điều 135, Điều 136 Bộ luật TTHS; Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ. Các bị cáo đều có đơn xin miễn án phí. Do đó, đề nghị miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm cho các bị cáo.

- Người bào chữa cho các bị cáo có bản bào chữa nhất trí với đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn về tội danh, khung hình phạt các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt bổ sung, xử lý vật chứng và án phí đối với các bị cáo. Về mức hình phạt:

Đề nghị xử phạt: Bị cáo Lô Xuân H và Hạ Văn T mức thấp nhất của khung hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn đề nghị.

Các bị cáo khai nhận hành vi của mình đúng như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn đã truy tố và nhất trí với quan điểm luận tội của Kiểm sát viên, bản bào chữa của người bào chữa; Các bị cáo không có ý kiến tranh luận, bổ sung bào chữa hay khiếu nại gì. Lời sau cùng bị cáo Lô Xuân H xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình và xã hội. Bị cáo Hạ Văn T không có ý kiến.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa cho các bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, những người tham gia tố tụng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Về thủ tục tố tụng: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến phiên tòa vắng mặt. Tuy nhiên, tại cơ quan điều tra, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng đã có lời khai đầy đủ. Tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa, kiểm sát viên không yêu cầu hoãn phiên tòa. Căn cứ khoản 1 Điều 292, khoản 1 Điều 293 Bộ luật tố tụng hình sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo Khoảng 12 giờ ngày 02/8/2020 tại rìa đường Quốc lộ 3 thuộc Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn, Lô Xuân H, sinh năm 1980, trú tại Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn có hành vi bán cho Hạ Văn T, sinh năm 1992 (người cùng thôn) 01 (một) gói nhỏ Heroine với giá 1.000.000đ (một triệu đồng). Khoảng 20 giờ ngày 03/8/2020 H bán cho Hoàng Văn H1, sinh năm 1991 (người cùng thôn) 01 (một) gói Heroine với giá 100.000đ (một trăm nghìn đồng). Đến khoảng 21 giờ cùng ngày cũng tại địa điểm trên, Lô Xuân H tiếp tục bán cho Hạ Văn T 01 (một) gói Heroine với giá 1.000.000đ (một triệu đồng). Tổng cộng số tiền H bán ma túy có được là 2.100.000đ (hai triệu một trăm nghìn đồng). Ngày 04/8/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn khám xét khẩn cấp còn thu giữ được của Lô Xuân H 01 (một) gói nhỏ Heroine có tổng trọng lượng (khối lượng) 3,41 gam (ba phẩy bốn một gam) H cất giấu để sử dụng và bán (không chia ra cụ thể phần nào sử dụng, phần nào bán).

Hồi 07 giờ 30 phút ngày 04/8/2020, tổ công tác Công an huyện Ngân Sơn bắt quả tang Hạ Văn T, sinh năm 1992, trú tại thôn Pù Mò, xã Bằng Vân, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn đang tàng trữ 07 (bảy) gói nhỏ ma túy (heroine) có tổng trọng lượng (khối lượng) 0,50g (không phẩy năm không gam) nhằm mục đích để sử dụng và bán (không chia ra cụ thể phần nào sử dụng, phần nào bán). Hạ Văn T khai nhận: Số Heroine mà cơ quan điều tra thu giữ được là do T mua với Lô Xuân H, sinh năm 1980, trú tại Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn vào các ngày mùng 02 và 03/8/2020 hai lần được 02 (hai) gói nhỏ với tổng số tiền là 2.000.000đ (hai triệu đồng). Trước đó, Túc đã nhiều lần được bán Heroine cho nhiều người nghiện, cụ thể: Khoảng 11 giờ ngày 30/7/2020 bán cho Lê Văn K, sinh năm 1980, trú tại xóm 5, xã N, huyện Ng, tỉnh Nam Định 01 (một) gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng); khoảng 16 giờ ngày 31/7/2020 bán cho Lý Văn Q, sinh năm 1984, trú tại Thôn B, xã Đ, huyện N, tỉnh Bắc Kạn 01 (một) gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng); đến ngày 01/8/2020 T tiếp tục bán cho K 01 (một) gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng); đến ngày 02/8/2020, T tiếp tục bán cho Q 01 (một) gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng); đến ngày 03/8/2020, T tiếp tục bán cho K 01 (một) gói Heroine với giá 200.000đ (hai trăm nghìn đồng). Tổng số tiền T bán Heroine có được là 1.000.000 đồng (một triệu đồng).

Trong vụ án này, các bị cáo Lô Xuân H và Hạ Văn T đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi phạm tội của hai bị cáo độc lập, không phải là đồng phạm. Tuy nhiên, bị cáo Lô Xuân H là người trực tiếp bán ma túy cho các đối tượng nghiện ma túy trong đó có 02 lần bán cho bị cáo Hạ Văn T. Từ số ma túy đã mua được của H, T bán cho những người nghiện khác. Như vậy, Lô Xuân H và Hạ Văn T phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết định khung là phạm tội 02 lần trở lên quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo Lô Xuân H và Hạ Văn T đều là công dân có đủ khả năng nhận thức và điều khiển được hành vi của bản thân trong cuộc sống, buộc các bị cáo phải biết được ma túy là chất gây nghiện do Nhà nước độc quyền quản lý, mọi hành vi trái pháp luật xâm phạm đều bị trừng trị nghiêm minh. Song do ý thức coi thường pháp luật, lười lao động, các bị cáo đều nghiện ma túy và có hành vi mua bán trái phép chất ma túy.

Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến sự độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, chính trị tại địa phương, là nguyên nhân làm lây lan, phát sinh nhiều tệ nạn nguy hiểm xã hội và các hành vi vi phạm pháp luật khác. Do đó, cần phải có mức hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục các bị cáo thành con người tốt có ích cho xã hội, đồng thời ngăn ngừa tội phạm chung. Việc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Ngân Sơn ra quyết định khởi tố vụ án, tiến hành điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện Ngân Sơn quyết định truy tố bị cáo Lô Xuân H và Hạ Văn T trước Tòa án để xét xử về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 251 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là đúng quy định của pháp luật, đúng với diễn biến khách quan của vụ án, không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội.

Điều luật có nội dung:

“1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm:

a)… b) Phạm tội 02 lần trở lên”.

Người bào chữa tại phiên tòa đã đưa ra được những chứng cứ chứng minh về các tình tiết giảm nhẹ cho các bị cáo và các chứng cứ khác nhằm giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, xét thấy bản bào chữa của người bào chữa có căn cứ và cơ sở pháp luật, do vậy cần chấp nhận.

[3] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Các bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự.

Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử cả 02 bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của bản thân. Các bị cáo còn tự khai ra các lần bán ma túy trước đó. Bị cáo Lô Xuân H có bố đẻ là ông Lô Xuân Sl được Nhà nước tặng thưởng 01 (một) Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhất, 01 (một) Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Nhì, 02 (hai) Huân chương Chiến sỹ vẻ vang hạng Ba, có mẹ đẻ là bà Đinh Thị C được Nhà nước tặng thưởng Huy chương kháng chiến hạng Nhất; bị cáo Hạ Văn T có bố đẻ là ông Hạ Chí T được Nhà nước tặng thưởng Huân chương chiến sỹ giải phóng hạng Ba và Huân chương kháng chiến hạng Ba. Do đó, cả hai bị cáo được hưởng ba tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[4] Về hình phạt đối với bị cáo - Về hình phạt chính: Với tính chất vụ án và mức độ của hành vi phạm tội của các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy cần phải xử phạt các bị cáo ở mức hình phạt tương ứng với hành vi mà các bị cáo đã thực hiện, cần cách ly các bị cáo khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành người tốt và phòng ngừa chung cho xã hội.

- Hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt chính, các bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền quy định tại khoản 5 Điều 251 của Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét thấy các bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của Chính phủ do đó không xem xét áp dụng.

[5] Về xử lý vật chứng trong vụ án:

- Tang vật của vụ án là các phong bì niêm phong mẫu hoàn trả ký hiệu T131, T130 là vật cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu huỷ; phong bì niêm phong nilon gói cũ, giấy gói cũ và phong bì niêm phong cũ ký hiệu N2, M2 xét không có giá trị cần tịch thu tiêu hủy; 01 cân điện tử bị cáo H dùng để cân ma túy, 3 thẻ sim điện thoại số 0977323042; 0961335804 và 0399616692 cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với 02 chiếc điện thoại niêm phong trong phong bì ký hiệu M1, A1 là chiếc điện thoại các bị cáo dùng để liên lạc mua bán ma túy cần tịch thu hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 chiếc điện thoại niêm phong trong phong bì A4 không liên quan đến hành vi phạm tội cần trả lại cho bị cáo Lô Xuân H.

- Tịch thu sung quỹ Nhà nước số tiền 2.100.000 đồng là tiền thu lợi bất chính do bị cáo bán ma túy mà có trong tổng số tiền 2.140.000 đồng tạm giữ của Lô Xuân H. Số tiền còn lại 40.000 đồng trả lại cho bị cáo.

- Đối với số tiền 1.000.000 đồng do bị cáo Hạ Văn T bán ma túy mà có, bị cáo đã chi tiêu cá nhân hết cần truy thu, nộp ngân sách Nhà nước.

[6] Về án phí: Các bị cáo là người dân tộc thiểu số, sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; Các bị cáo có đơn xin miễn án phí. Do vậy các bị cáo được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

[7] Trong vụ án này, còn có các vấn đề liên quan Đối với người đàn ông khoảng 40 tuổi (H không biết họ, tên, địa chỉ) theo lời khai của H là người đã bán ma túy cho H vào ngày 01/8/2020. Kết thúc điều tra, H không cung cấp được danh tính, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này nên không đủ căn cứ điều tra, xử lý.

Đối với người đàn ông (T không biết họ, tên, địa chỉ) theo lời khai của T là người đã bán ma túy cho T vào ngày 30/7/2020. Kết thúc điều tra, T không cung cấp được danh tính, địa chỉ cụ thể của người đàn ông này nên không đủ căn cứ điều tra, xử lý.

Đối với Hoàng Văn H1, Lý Văn Q, Lê Văn K là những người mua ma túy (heroine) với H, T để sử dụng cá nhân. Sau khi mua được ma túy đã sử dụng hết nên không có căn cứ để xác định khối lượng. Xét hành vi của H, Q, K không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan điều tra phối hợp với Ủy ban nhân dân xã nơi các đối tượng cư trú lập hồ sơ để quản lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 251, Điều 38, điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Lô Xuân H phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 04/8/2020.

- Căn cứ điểm b, khoản 2 Điều 251, Điều 38; điểm r, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

Tuyên bố bị cáo Hạ Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt bị cáo 07 (bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 04/8/2020.

2. Về xử lý vật chứng trong vụ án: Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017); khoản 2, khoản 3 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

2.1. Tịch thu, tiêu hủy:

- 01 (một) phong bì niêm phong mẫu hoàn trả, ký hiệu T131; Mặt trước phong bì ghi: Vụ “Lô Xuân H (1980) TT: Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn”; Mặt sau phong bì có 04 (bốn) chữ ký không đọc được, 02 (hai) dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.

- 01 (một) phong bì niêm phong, ký hiệu N2; Mặt trước phong bì có ghi: Nilon gói cũ, phong bì niêm phong cũ thu giữ của Lô Xuân H ngày 04/8/2020. Mặt sau phong bì có các dòng chữ Bùi Huy C, Hoàng Hải T, Hứa Luân L, Lô Xuân H, Chu Thanh T, Phan Trường Gi, 06 (sáu) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn.

- 01 (một) phong bì niêm phong mẫu hoàn trả, ký hiệu T130; Mặt trước phong bì ghi: “Vụ: Hạ Văn T (1992) TT: Thôn P, xã B, huyện N, tỉnh Bắc Kạn”; Mặt sau phong bì có 03 (ba) chữ ký không đọc được, 02 (hai) dấu tròn đỏ của Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn.

- 01 (một) phong bì niêm phong giấy gói cũ, ký hiệu M2; Mặt trước phong bì ghi: “Giấy gói cũ, phong bì niêm phong cũ thu giữ của Hạ Văn T ngày 04/8/2020. Mặt sau phong bì có các dòng chữ Phan Trường Gi, Chu Thanh T, Hoàng Hải T, Hứa Luân L, Hạ Văn T, 06 (sáu) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn.

- 01 (một) cân điện tử màu đen, trên mặt cân có ghi chữ POCKET SCALE, cân cũ đã qua sử dụng.

- 03 (ba) sim điện thoại di động số: 0977323042; 0961335804 và 0399616692.

2.2. Tịch thu, hóa giá sung vào ngân sách Nhà nước:

- 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO, mặt trước màu đen, viền và mặt sau màu tím than, số IMEI 1: 868125042390035, IMEI 2:

868125042390027, điện thoại cũ đã qua sử dụng niêm phong trong phong bì ký hiệu M1. Mặt trước phong bì ghi: 01 (một) điện thoại di động thu giữ của Lô Xuân H ngày 04/8/2020; Mặt sau có 02 dòng chữ Bùi Huy C, 02 (hai) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn.

- 01 (một) điện thoại di động, nhãn hiệu OPPO, mặt trước màu trắng, viền và mặt sau màu vàng đồng, số IMEI 1: 862646036274634, IMEI 2: 862646036274626, màn hình điện thoại bị nứt vỡ, máy cũ đã qua sử niêm phong trong phong bì ký hiệu A1. Mặt trước phong bì ghi: “01 (một) điện thoại di động tạm giữ của Hạ Văn T ngày 04/8/2020; Mặt sau phong bì có 02 (hai) dòng chữ Bùi Huy C, 02 (hai) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn.

2.3. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 2.100.000đ (hai triệu một trăm nghìn đồng) trong tổng số tiền 2.140.000đ (hai triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng) đang tạm giữ của bị cáo Lô Xuân H được niêm phong trong phong bì ký hiệu A1. Mặt trước phong bì ghi: “Số tiền 2.140.000đ (hai triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng) thu giữ của Lô Xuân H ngày 04/8/2020”; Mặt sau phong bì có 02 (hai) dòng chữ Bùi Huy C, 02 (hai) chữ kí không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của Cơ quan CSĐT Công an huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn.

2.4. Truy thu sung vào ngân sách nhà nước số tiền 1.000.000đ (một triệu đồng) của bị cáo Hạ Văn T do bán ma túy mà có.

2.5. Trả lại cho bị cáo Lô Xuân H:

- 01 (một) điện thoại di động màn hình cảm ứng, nhãn hiệu OPPO, vỏ máy màu đen, màn hình bị nứt vỡ, số IMEI 1: 863880046735172, IMEI 2: 863880046735164, trong máy có gắn 01 thẻ sim, điện thoại cũ đã qua sử dụng niêm phong trong phong bì ký hiệu A4. Mặt trước phong bì ghi: Điện thoại di động OPPO thu giữ tại đầu giường ngủ trong nhà Lô Xuân H; Mặt sau có các dòng chữ Bùi Huy C, Lô Xuân H, Hoàng Thị L, Hạ Văn P, Hà Sỹ V, Tạ Văn C, 06 (sáu) chữ ký không đọc được và 02 (hai) dấu tròn đỏ của UBND xã Bằng Vân, huyện Ngân Sơn.

- Số tiền 40.000đ (bốn mươi nghìn đồng) còn lại trong tổng số tiền 2.140.000đ (hai triệu một trăm bốn mươi nghìn đồng) đang tạm giữ của bị cáo Lô Xuân H.

(Tình trạng, số lượng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 26/11/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Ngân Sơn và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Ngân Sơn).

3. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Điều 12 Nghị quyết 326/UBTVQH, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Các bị cáo được miễn toàn bộ án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

4. Quyền kháng cáo: Các bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong hạn mười năm ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong trong hạn mười năm ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

194
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 31/2020/HS-ST ngày 25/12/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ngân Sơn - Bắc Kạn
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 25/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về