Bản án 31/2020/HS-ST ngày 20/03/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG ANH, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 31/2020/HS-ST NGÀY 20/03/2020 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 20/3/2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 20/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 02 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 26/2020/QĐXXST- HS ngày 05 tháng 03 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn Đ - Sinh năm: 1980; Hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn LQ, xã VH, huyện ĐA, Thành phố Hà Nội; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Con ông: Nguyễn Văn H và bà Nguyễn Thị N; Gia đình có 04 chị em, bị cáo là con thứ 2; Vợ Phạm Thị T; 03 con, lớn sinh 2005, nhỏ sinh năm 2014.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ từ 12/11/2019, tạm giam từ ngày 18/11/2019 đến nay tại trại tạm giam số 1 - Công an thành phố Hà Nội.

Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Anh Giáp Đình Đ1, sinh năm 1979; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi ở: Thôn B, xã KC, huyện ĐA, thành phố Hà Nội.

Vắng mặt tại phiên tòa (Đã có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hi 13 giờ 45 phút ngày 12/11/2019, tổ công tác Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy – Công an huyện Đông Anh làm nhiệm vụ tại thôn HD, xã KC, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội khám người theo thủ tục hành chính đối với Nguyễn Văn Đ, Giáp Đình Đ1 (sinh năm: 1979; HKTT: Thôn B, xã KC, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội) và Nguyễn Văn H (sinh năm: 1987; HKTT: Thôn NT, xã KH, huyện ML, thành phố Hà Nội). Qua kiểm tra, Tổ công tác đã thu giữ của Nguyễn Văn Đ 01 gói giấy màu trắng kích thước (1x2)cm bên trong chứa chất bột màu trắng nghi là ma túy trong lòng bàn tay trái của Đ. Tổ công tác đã lập biên bản tạm giữ, niêm phong vật chứng rồi đưa Nguyễn Văn Đ, Giáp Đình Đ1 và Nguyễn Văn H về trụ sở để tiếp tục điều tra làm rõ.

Ngoài ra còn thu giữ:

- Của Nguyễn Văn Đ: 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng – vàng, số thuê bao 0342698903 trong túi quần phía trước bên phải; 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave alpha màu xanh, BKS: 29P5-9986, số khung: 045792, số máy: 0045876.

- Của Giáp Đình Đ1: 01 điện thoại di động nhãn hiệu PT mobile màu xanh, số thuê bao: 0375679462 và 150.000 đồng tại túi quần phía trước bên phải.

Tại Bản Kết luận giám định số 7295/KLGĐ-PC09 ngày 21/11/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an Thành phố Hà Nội kết luận: Chất bột màu trắng bên trong 01 gói giấy màu trắng thu giữ của Nguyễn Văn Đ là ma túy loại Heroine, khối lượng: 0,084 gam.

Tại Cơ quan điều tra, tại các lời khai ngày 12,14/11/2019 ban đầu Nguyễn Văn Đ khai nhận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 12/11/2019 khi Đ đang đi làm tại Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội thì nhận được điện thoại từ số thuê bao 0375679462 của Giáp Đình Đ1 gọi đến số thuê bao 0342698903 của Đ và đặt vấn đề nhờ Đ mua hộ cho Đ1 150.000 đồng tiền Heroine, Đ đồng ý và hẹn Đ1 khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày sẽ gặp nhau tại cổng Trung tâm Methadone ở HD, KC, Đông Anh, Hà Nội để giao dịch Heroine, Đ1 đồng ý. Nghe điện thoại xong, Đồng một mình đi xe máy BKS: 29P5-9986 đến khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh gặp và mua của 01 người phụ nữ không quen biết 01 gói Heroine với giá 100.000 đồng. Mua xong, Đ tìm khu vực vắng người và sử dụng hết một ít Heroine bằng hình thức chích, số Heroine còn lại, Đ giấu vào túi áo và đi về chỗ làm tiếp tục làm việc. Đến khoảng 12 giờ 30 phút cùng ngày, sau khi hết giờ làm, Đ một mình đi xe máy BKS: 29P5-9986 đến Trung tâm Methadone uống thuốc. Trên đường đi, Đ gọi lại cho Đ1 và báo với Đ1 việc Đ đang đi đến điểm hẹn, Đ1 đồng ý. Khi Đồng đi đến điểm hẹn thì thấy Đ1 và Nguyễn Văn H đang đứng đợi. Tại đây khi Đ chuẩn bị giao Heroine và nhận tiền của Đ1 thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt giữ.

Sau đó, tại lời khai ngày 18/11/2019 Đồng thay đổi lời khai không thừa nhận việc bán Heroine cho Giáp Đình Đ1 vào ngày 12/11/2019 và khai: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 12/11/2019 khi Đ đang làm tại Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội thì nhận được điện thoại của Đ1 gọi cho Đồng, rủ Đ mua ma túy Heroine về để cả hai cùng sử dụng giá chung với giá 250.000 đồng, còn tiền nong khi nào gặp Đ1 sẽ nói cụ thể với Đ. Đ đồng ý và hẹn Đ1 gặp nhau tại cổng Trung tâm Methadone.

Nghe điện thoại xong, Đồng tiếp tục làm việc đến khoảng 11 giờ 30 phút cùng ngày thì đi xe máy đến khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh gặp và mua của 01 người phụ nữ không quen biết 01 gói Heroine với giá 250.000 đồng. Mua xong, Đ tìm khu vực vắng người và sử dụng hết một ít Heroine bằng hình thức chích, số Heroine còn lại, Đ gói lại, giấu vào túi áo và đi đến Trung tâm Methadone uống thuốc. Sau khi uống thuốc xong, Đ gọi điện thông báo với Đ1 việc Đ đang ở điểm hẹn, Đ1 đồng ý. Đ đi đến điểm hẹn thì Đ1 và Nguyễn Văn H đang đứng đợi. Khi Đ dừng xe lại thì bị lực lượng Công an kiểm tra, phát hiện bắt giữ. Mục đích Đ mua ma túy Heroine về để cùng sử dụng chung với Đ1, ngoài ra không có mục đích nào khác.

Đến lời khai ngày 19/11/2019 Đ lại tiếp tục khai nhận hành vi bán trái phép Heroine cho Giáp Đình Đ1; phù hợp với các lời khai ban đầu việc Đ1 gọi điện và đặt mua 150.000 đồng tiền Heroine của Đ. Đ cũng xác định khi bán Heroine cho Đ1 sẽ được hưởng lợi số tiền 50.000 đồng và một phần ma túy Đ đã sử dụng.

Ti lời khai ngày 22/12/2019, 05/02/2020 Đ phủ nhận việc bán Heroine cho Giáp Đình Đ1 vào ngày 12/11/2019, Đ khai: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 12/11/2019 khi Đồng đang làm tại Yên Viên, Gia Lâm, Hà Nội thì nhận được điện thoại của Đ1 gọi cho Đ, rủ Đ mua ma túy Heroine về để cả hai cùng sử dụng giá chung nhưng Đ không đồng ý. Nguồn gốc số ma túy thu giữ của Đ là do Đ mua vào khoảng 07h00’ ngày 10/11/2019 tại khu vực Từ Sơn, Bắc Ninh của 01 người đàn ông không quen biết 01 gói Heroine với giá 200.000 đồng. Đ đã sử dụng một nửa, còn một nửa gói Đ cất giấu trong người để sử dụng.

Tại Cơ quan điều tra, Giáp Đình Đ1 khai nhận: Khoảng 10 giờ 00 phút ngày 12/11/2019, do bản thân có nhu cầu sử dụng Heroine nên Đ1 đã gọi điện cho Nguyễn Văn Đ và đặt mua của Đ 150.000 đồng tiền Heroine, Đ đồng ý và hẹn Đ1 khoảng 13 giờ 30 phút cùng ngày sẽ gặp nhau tại cổng trung tâm Methadone để Đ giao dịch ma túy, Đ1 đồng ý. Đến khoảng 13 giờ cùng ngày, Nguyễn Văn Đ gọi điện thoại lại cho Đ1 và thông báo Đ đang đi đến điểm hẹn. Nghe điện xong, Đ1 đi bộ ra điểm hẹn với Đ. Trên đường đi, Đ1 gặp Nguyễn Văn H và rủ H đi cùng Đ1, H đồng ý. Sau đó Đ1 và H đến khu vực gần cổng trung tâm điều trị Methadone thuộc HD, KC, Đông Anh, Hà Nội chờ khoảng 05 phút thì thấy Đ đi xe máy đến gặp Đ1. Tại đây khi Đ1 chuẩn bị đưa 150.000 đồng và nhận Heroine của Đ thì bị lực lượng Công an kiểm tra, bắt giữ.

Ban đầu, Giáp Đình Đ1 khai Nguyễn Văn H không biết mục đích Đ1 rủ H đến gặp Nguyễn Văn Đ là để Đ1 mua Heroine của Đ. Tuy nhiên sau đó, Giáp Đình Đ1 thay đổi lời khai thừa nhận ngày 12/11/2019 khi gặp H, Đ1 rủ H cùng đi đến gặp Đ để mua Heroine về cùng nhau sử dụng.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Văn H khai nhận phù hợp với lời khai của Giáp Đình Đ1. H biết mục đích Đ1 rủ đi cùng đến gặp Nguyễn Văn Đ là để mua Heroine của Đ. Tuy nhiên do bản thân H cũng là người sử dụng Heroine nên H đã đồng ý đi cùng Đ1 mua Heroine của Đồng để cùng nhau sử dụng nhưng chưa mua được Heroine thì bị lực lượng Công an phát hiện bắt giữ.

Tiến hành đối chất giữa Nguyễn Văn Đ với Giáp Đình Đ1 nhưng Đ không thừa nhận việc bán trái phép ma túy cho Giáp Đình Đ1, Đồng khai sau khi nhận được điện thoại của Đ1 gọi cho Đ, rủ Đ mua ma túy Heroine về để cả hai cùng sử dụng giá chung nhưng Đ không đồng ý.

Mặc dù Nguyễn Văn Đ không thừa nhận hành vi bán trái phép ma túy cho Giáp Đình Đ1 ngày 12/11/2019 nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ như: sơ đồ hiện trường (BL126); Biên bản khám người theo thủ tục hành chính đối với Nguyễn Văn Đ (BL107), Giáp Đình Đ1 (BL 108); vật chứng thu giữ (BL 111, 112), Biên bản kiểm tra nhật ký điện thoại của Đồng và Đ1 (BL 114, 115); Biên bản đối chất giữa Đồng và Đ1 (BL84-85 ), Kết luận giám định (BL104), lời khai người liên quan Giáp Đình Đ1 (BL68-73), Nguyễn Hữu H (BL 74-82); lời khai người chứng kiến anh Lê Duy A (BL 99-102), lời khai và bản kiểm điểm nhận tội các ngày 12/11/2019; 14 và 19/11/2019 của Đ trong quá trình điều tra (BL 42-47, 52-55, 58-60, 63-64), đủ căn cứ kết luận: Nguyễn Văn Đ đã bán trái phép chất ma túy cho Giáp Đình Đ1 vào ngày 12/11/2019 tại HD, KC, Đông Anh, Hà Nội.

Đi với người đã bán ma túy cho Nguyễn Văn Đ, do Đồng khai không biết họ tên, địa chỉ cụ thể và số điện thoại của người này nên Cơ quan điều tra không có căn cứ làm rõ.

Đi với Giáp Đình Đ1 và Nguyễn Văn H đã có hành vi Sử dụng trái phép chất ma túy, Cơ quan điều tra đã trích sao phần tài liệu liên quan đến hành vi của Đ1 và H chuyển cho Công an xã KC, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội và Công an xã Kim Hoa, huyện Mê Linh, Thành phố Hà Nội để lập hồ sơ đưa vào diện quản lý theo quy định.

Đi với chiếc xe máy nhãn hiệu Honda Wave alpha màu xanh, biển kiểm soát: 29P5-9986; số khung: 045792; số máy: 0045876 thu giữ của Nguyễn Văn Đ, quá trình điều tra xác định là tài sản hợp pháp của chị Phạm Thị T (vợ của Đ). Chị T không biết việc Đ sử dụng xe máy của chị T để thực hiện hành vi phạm tội. Ngày 16/12/2019, cơ quan điều tra đã ra Quyết định xử lý vật chứng trả lại chiếc xe trên cho chị T.

Tại cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 10/02/2020, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội đã truy tố Nguyễn Văn Đ về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi năm 2017).

Tại phiên tòa, Bị cáo không thừa nhận hành vi mua bán trái phép chất ma túy như nội dung cáo trạng đã nêu. Bị cáo xác định số ma túy thu giữ trên người bị cáo khi bị bắt là ma túy bị cáo mua để sử dụng cùng Đ1 chứ không phải mua để bán cho Đ1.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đông Anh giữ quyền công tố tại phiên toà, sau khi phân tích nội dung, tính chất vụ án, một lần nữa khẳng định việc truy tố bị cáo về tội danh và điều luật như cáo trạng đã nêu là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), xử phạt: Nguyễn Văn Đ với mức án từ 24 đến 28 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên chứa 0,068 gam ma túy heroin thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn Đ, tịch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng – vàng lắp sim số thuê bao 0342698903 thu giữ của Nguyễn Văn Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu PT mobile màu xanh lắp sim số thuê bao 0375679462 và 150.000 đồng thu giữ của Giáp Đình Đ1 là các phương tiện mà bị cáo và người liên quan dùng để liên lạc mua bán heroin.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Các cơ quan tiến hành tố tụng của huyện Đông Anh thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về thẩm quyền và các quy định khác về điều tra, truy tố và xét xử.

[2]. Về hành vi và tội danh: Tại phiên tòa tuy bị cáo Nguyễn Văn Đ không nhận nhưng căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ khác tại cơ quan điều tra được chứng minh bằng vật chứng của vụ án là 0,084 gam Heroin thu giữ trong người của Đồng; lời khai của bị cáo Đồng trong các ngày 12, 14 và 19 tháng 11 năm 2019; lời khai của anh Giáp Đình Đ1, anh Nguyễn Văn H. Đủ cơ sở để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Đ đã phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”. Tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017).

[3]. Về nhân thân, tiền án, tiền sự và các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

- Về nhân thân: Lần phạm tội này là lần đầu.

- Về tiền án, tiền sự: Bị cáo được xác định không có tiền án, tiền sự.

- Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Khi lượng hình, Tòa án đã xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo để từ đó có hình phạt tương xứng với mức độ và hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể:

+ Tình tiết tăng nặng: Không có.

+ Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo có bố đẻ là người có công với cách mạng bị nhiễm chất độc hóa học. Đây là các tình tiết giảm nhẹ, cần áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự 2015 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[4]. Về hình phạt:

- Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo đã trực tiếp xâm hại đến chính sách đặc quyền quản lý của Nhà nước về các chất độc hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an, an toàn xã hội. Bị cáo là người đã thành niên, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật, gây nguy hại cho xã hội và bị Nhà nước quy định là tội phạm, bị cáo nhận thức được ma túy là chất độc dược gây nghiện, nó hủy hoại sức khỏe con người, là nguyên nhân gây ra các căn bệnh xã hội trong đó có HIV/AIDS và các tội phạm khác nhưng bị cáo đã liều lĩnh tàng trữ chất ma túy là loại chất do nhà nước độc quyền quản lý. Đây là vụ án mua bán trái phép chất ma túy mang tính chất nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Văn Đ đã thể hiện ý thức coi thường pháp luật, gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự trên địa bàn huyện Đông Anh cần xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật nhằm răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.Vì vậy, cần phải áp dụng hình phạt nghiêm khắc đối với bị cáo nhằm hạn chế các loại tội phạm ma túy trên địa bàn huyện Đông Anh nói riêng và Thành phố Hà Nội nói chung. Do đó, áp dụng Điều 38 Bộ luật Hình sự để xử phạt tù có thời hạn với bị cáo.

- Về hình phạt bổ sung: Theo khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định, thì người phạm tội có thể còn bị phạt tiền…Tuy nhiên, xét trong trường hợp này bị cáo chưa có nghề nghiệp ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung.

[5]. Về biện pháp tư pháp:

- Đối với 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,068 gam ma túy loại heroin cần tịch thu để tiêu hủy, đối với 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng – vàng lắp sim số thuê bao 0342698903 thu giữ của Nguyễn Văn Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu PT mobile màu xanh lắp sim số thuê bao 0375679462 và 150.000 đồng thu giữ của Giáp Đình Đ1 cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước là đúng theo quy định tại Điều 47 Bộ luật Hình sự 2015 và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.

[6]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7]. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ:

- Khoản 1 Điều 251; khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47 của Bộ luật Hình sự 2015;

- Điều 106; Điều 135; khoản 2 Điều 136; khoản 1 Điều 331 và Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự;

- Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án cùng danh mục kèm theo.

Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Xử phạt: Nguyễn Văn Đ 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/11/2019.

Tch thu tiêu hủy: 01 phong bì niêm phong bên trong có chứa 0,068 gram ma túy loại heroin.

Tch thu sung công quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng – vàng lắp sim số thuê bao 0342698903 thu giữ của Nguyễn Văn Đ; 01 điện thoại di động nhãn hiệu PT mobile màu xanh lắp sim số thuê bao 0375679462 và 150.000 đồng thu giữ của Giáp Đình Đ1.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao, nhận vật chứng ngày 12/2/2020 giữa Công an huyện Đông Anh và Chị cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh và giấy nộp tiền vào tài khoản ngày 12/2/2020 giữa Công an huyện Đông Anh và Chị cục Thi hành án dân sự huyện Đông Anh).

Bị cáo Nguyễn Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm. Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan chỉ có quyền kháng cáo về những vấn đề trực tiếp liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của mình

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HS-ST ngày 20/03/2020 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đông Anh - Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 20/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về