Bản án 31/2020/HS-ST ngày 13/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NINH BÌNH, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 31/2020/HS-ST NGÀY 13/03/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 03 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố N B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 28/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 02 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2020/QĐXXST-HS ngày 02 tháng 03 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lê Văn H (Tên gọi khác: không); sinh năm 1986; Nơi ĐKNKTT và chỗ ở: xóm Nam, thôn Tr Tr1, xã N Gi, huyện H L, tỉnh N B; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Lê Văn Đ và bà: Vũ Thị Ngh ; Gia đình có 06 anh, chị em, bị cáo là con thứ sáu; Vợ: Bùi Thị Nh, có 02 con: Con lớn sinh năm 2009, nhỏ sinh năm 2014;

Tiền án: Bản án số 124/HSST ngày 16/9/2016 của TAND thành phố N B xử phạt Lê Văn H 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” buộc nộp lại 600.000 đồng sung quỹ Nhà nước và 200.000 đồng án phí HSST. Lê Văn H chưa thi hành phần án phí và truy thu nộp Ngân sách Nhà nước.

Tiền sự :

- Quyết định số 23/QĐ-XPHC ngày 16/3/2015, công an huyện H L xử phạt 750.000 đồng về hành vi “ sử dụng trái phép chất ma túy”

- Quyết định số 51/QĐ-XPHC ngày 29/6/2015, Công an phường V Gi, thành phố N B xử phạt 750.000 đồng về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy”

- Quyết định số 59/QĐ-XPHC ngày 24/8/2015, Công an huyện H L xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “ Sử dụng trái phép chất ma túy”

- Quyết định số 62/QĐ-XPHC ngày 31/8/2015, Công an huyện H L xử phạt 1.500.000 đồng về hành vi “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Các quyết định xử phạt hành chính trên, bị cáo Lê Văn H đều chưa thi hành.

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 17/11/2019 đến ngày 26/11/2019 chuyển tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh N B đến nay (Có mặt tại phiên tòa)

1. Người bị hại: chị Phạm Thị H, sinh năm 1991; Địa chỉ: Xóm 2, xã Kh C, huyện Y Kh, tỉnh N B (vắng mặt).

2. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: anh Phạm Như Th, sinh năm 1997; Địa chỉ: xóm Nam Chiêm, xã N M, huyện H L, tỉnh N B (vắng mặt).

3. Người làm chứng:

- Bà Phạm Thị Ph, sinh năm 1969 (vắng mặt);

- Anh Tạ Văn Th, sinh năm 1982 (vắng mặt);

- Ông Lê Văn Đ, sinh năm 1942 (vắng mặt);

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Văn H là người đã có 01 tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, không có nghề nghiệp ổn định. Để có tiền tiêu sài cá nhân, H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản của người khác. Khoảng 12 giờ ngày 15/11/2019, H đi xe đạp từ nhà ở xóm Nam, thôn Tr Tr, xã N Gi, huyện H L, tỉnh N B đến Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình thuộc phường N Th, thành phố N B mục đích tìm tài sản sơ hở để trộm cắp. Đến nơi, H gửi xe đạp ở ngoài cổng, sau đó đi bộ vào khoa thần kinh ở tầng 1 khu nhà C của bệnh viện. Khi đi đến phòng 102, H thấy trong phòng có 2 bệnh nhân đang ngủ ở hai giường bên tay phải của phòng bệnh, tiếp tục quan sát H phát hiện, trên giường bệnh thứ hai bên tay trái có 01 điện thoại di động Samsung J7 và 01 điện thoại di động Itel của chị Phạm Thị H, sinh năm 1991, trú tại xóm 2, xã Kh C, huyện Y Kh, tỉnh N B. Thấy không có người trông coi, Lê Văn H lén lút đi đến gần dùng tay phải lấy 02 chiếc điện thoại di động cất vào trong túi quần rồi đi ra ngoài. Sau khi trộm cắp được hai chiếc điện thoại trên, H tháo 03 sim vứt đi rồi bắt taxi do anh Tạ Văn Th, sinh năm 1982, trú tại xã Kh Th huyện Y M tỉnh N B bán 02 chiếc điện thoại di động vừa trộm cắp được cho anh Phạm Như Th, sinh năm 1997, là chủ cửa hàng được 900.000 đồng, số tiền này H tiêu sài cá nhân hết.

Sau khi phát hiện mất tài sản chị Phạm Thị H đã làm đơn trình báo. Quá trình rà soát camera, nhân chứng, đối tượng liên quan, cơ quan Cảnh sát điều tra công an thành phố N B phát hiện Lê Văn H có biểu hiện nghi vấn nên đã triệu tập lên làm việc; Quá trình làm việc H xin đầu thú khai nhận hành vi phạm tội của mình. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố N B thu giữ 01 chiếc điện thoại Samsung J7 do anh Phạm Như Th giao nộp. Ngoài ra còn thu giữ của Lê Văn H: 01 xe đạp mini màu đỏ ; 01 áo phông cộc tay màu xanh, trắng; 01 quần bò dài màu xanh .

Tại bản kết luận định giá số 93/Kl-HĐ ngày 02/12/2019 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự UBND thành phố N B kết luận: 01 chiếc điện thoại di động Samsung Galaxy J7 và 01 chiếc điện thoại di động Itel có tổng trị giá 3.000.000 đồng.

Cáo trạng số 21/CT-VKS ngày 20/2/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B tỉnh N B đã truy tố Lê Văn H về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1, khoản 5 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Lê Văn H đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự ; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 BLHS. Xử phạt Lê Văn H từ 12 tháng tù đến 15 tháng tù về tội “ Trộm cắp tài sản”. Phạt tiền bị cáo từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng để sung quỹ Nhà nước.

Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 và 01 điện thoại di động Itel là tài sản của chị H đã được trả lại cho chị Phạm Thị H. Đối với 03 chiếc sim điện thoại Lê Văn H đã tháo vứt đi, Cơ quan điều tra đã rà soát nhưng không thu giữ được, chị Hạnh không yêu cầu Lê Văn H phải bồi thường và không có yêu cầu đề nghị gì thêm. Nên không đặt ra để giải quyết.

Đi với 01 chiếc xe đạp mini màu đỏ thu giữ của Lê Văn H quá trình điều tra xác định là xe của ông Lê Văn Đ, sinh năm 1942, trú tại thôn Tr Tr, xã N Gi, huyện H L, tỉnh N B là bố đẻ của Lê Văn H. Ngày 15/11/2019, H lấy xe đạp đi chơi. Việc Hạnh đi xe đến Bệnh viện đa khoa tỉnh N B trộm cắp tài sản, ông Đ không biết nên không vi phạm. Cơ quan cảnh sát điều tra công an thành phố Ni B đã trả lại chiếc xe trên cho ông Đ. Còn 01 áo phông cộc tay màu xanh trắng, 01 quần bò dài màu xanh cơ quan điều tra thu giữ của Lê Văn H, không liên quan đến vụ án. Cơ quan điều tra đã trả cho ông Đ là người được H ủy quyền để nhận lại tài sản.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không tranh luận gì với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát.

Lời nói sau cùng: Bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xét hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau :

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố N B, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố N B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo và người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo cũng không có ý kiến gì về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay bị cáo Lê Văn H đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình: Do không có việc làm ổn định, để có tiền tiêu sài cá nhân. Khoảng 12 giờ 10 phút ngày 15/11/2019, tại phòng 102 Khoa thần kinh, khu nhà C, Bệnh viện đa khoa tỉnh N B thuộc phường N Th, thành phố N B, tỉnh N B. Lê Văn H lợi dụng sơ hở, lén lút chiếm đoạt 01 chiếc điện thoại di động Samsung J7 và 01 chiếc điện thoại di động Itel của chị Phạm Thị H có tổng trị giá tài sản là 3.000.000 đồng .

Lời khai của bị cáo phù hợp khách quan với biên bản tiếp nhận nguồn tin về tội phạm, biên bản sao trích dữ liệu, đơn xin đầu thú, lời khai người làm chứng. Do vậy khẳng định hành vi của bị cáo Lê Văn H lợi dụng sự sơ hở của người khác, lén lút chiếm đoạt tài sản là hai chiếc điện thoại di động của chị Phạm Thị H trị giá 3.000.000 đồng là phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 điều 173 BLHS như cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Ninh Bình đã truy tố là có căn cứ, đúng người, đúng tội.

[3] Đánh giá tính chất hành vi và mức độ phạm tội của bị cáo cho thấy: Hành vi của bị cáo Lê Văn H là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an tại địa phương, gây tâm lý hoang mang, lo lắng cho quần chúng nhân dân. Bị cáo có tuổi đời còn trẻ, là người có đầy đủ nhận thức và năng lực trách nhiệm hình sự nhưng lại không chịu lao động chân chính, bản thân có nhân thân xấu và là người nghiện ma túy, đã từng bị xử phạt hành chính nhiều lần về hành vi tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy. Đã có một tiền án chưa được xóa án tích mà lại tiếp tục phạm tội là thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Do vậy, cần phải xử lý bị cáo mức hình phạt tù cách ly với xã hội một thời gian để bị cáo có điều kiện cải tạo trở thành công dân có ích cho gia đình và phòng ngừa chung cho xã hội. Khi quyết định hình phạt Hội đồng xét xử cần xem xét:

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo phạm tội khi chưa được xóa án tích của bản án số 124/2016/HSST ngày 16/9/2016 của TAND thành phố N B, tỉnh N B mà lại phạm tội do cố ý là tình tiết “tái phạm” được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải. Bị cáo đã đầu thú tại cơ quan điều tra, đây là tình tiết được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

[4] Về hình phạt bổ sung là phạt tiền: Xét thấy bị cáo không có việc làm, không có thu nhập. Các quyết định bị xử phạt hành chính trước, bị cáo chưa thi hành được do hoàn cảnh khó khăn nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[5]Về trách nhiệm dân sự: Đối với 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J7 và 01 chiếc điện thoại di động Itel đã được trả lại cho người bị hại. Còn 03 chiếc sim điện thoại bị cáo đã tháo vứt đi, cơ quan điều tra không thu giữ được. Người bị hại là chị Phạm Thị H không yêu cầu bồi thường, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về xử lý vật chứng: Đối với 01 chiếc xe đạp mini màu đỏ thu giữ của Lê Văn H, quá trình điều tra xác định là xe của ông Lê Văn Đ (là bố đẻ của bị cáo). Khi H lấy xe đi và thực hiện hành vi trộm cắp, ông Đ không biết nên không vi phạm. Cơ quan điều tra đã trả lại chiếc xe trên cho ông Đ. Đối với 01 áo phông cộc tay màu xanh, trắng; 01 quần bò dài màu xanh cơ quan điều tra thu giữ của Lê Văn H, không liên quan đến vụ án nên đã trả lại cho ông Đ là người được bị cáo ủy quyền là hợp lý, đúng quy định của pháp luật. Do vậy, phần trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đã được giải quyết xong nên không đặt ra để giải quyết trong vụ án này.

[7] Các vấn đề khác: Đối với anh Phạm Như Th, sinh năm 1977 trú tại xã N M, huyện H L, tỉnh N B là người mua hai chiếc điện thoại di động của H. Nhưng anh Th không biết nguồn gốc hai chiếc điện thoại trên do H trộm cắp mà có nên không vi phạm. Đối với số tiền 900.000 đồng anh Th mua hai chiếc điện thoại trên, H đã tiêu xài cá nhân hết. Anh Th không yêu cầu H phải bồi thường và không có đề nghị gì khác.

Đi với anh Tạ Văn Th, sinh năm 1982, trú tại xã Kh Th, huyện Y M, tỉnh N B là lái xe taxi chở Lê Văn H từ Bệnh viện đa khoa tỉnh Ninh Bình đến cổng chào điện tử thuộc xã Ninh Mỹ, huyện H L, tỉnh N B. Anh Th không biết việc H trộm cắp tài sản tại Bệnh viện đa khoa tỉnh N B và cất giấu trong người nên cơ quan Cảnh sát điều tra không xử lý đối với anh Tạ Văn Th là có căn cứ.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Bị cáo, Bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn H phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Xử phạt Lê Văn H 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/11/2019.

2. Án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Lê Văn H phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

231
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HS-ST ngày 13/03/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Ninh Bình - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/03/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về