TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH BẮC KẠN
BẢN ÁN 31/2020/HS-ST NGÀY 09/09/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Ngày 09 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 33/2020/TLST-HS ngày 17 tháng 8 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 31/2020/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2020 đối với bị cáo:
Lâm Văn H. Tên gọi khác: Không. Sinh ngày 17/01/1987 tại B - Bắc Kạn.
Nơi ĐKHKTT và chỗ ở hiện nay: Thôn N, xã N, huyện B, tỉnh Bắc Kạn; nghề nghiệp: làm ruộng; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Tày; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Lâm Văn Nh và bà Nông Thị N; có vợ là Đặng Thị Ch và 02 con. Tiền án, tiền sự: Không. Bị tạm giữ từ ngày 01/6/2020 đến ngày 04/6/2020 được tại ngoại cho đến nay – có mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 11 giờ 15 phút ngày 01/6/2020 tổ công tác Công an huyện B phối hợp với Công an xã C đang tiến hành tuần tra kiểm soát tại khu vực đường liên xã C – N thuộc thôn N, xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn phát hiện Lâm Văn H trú tại thôn N, xã N, huyện B, tỉnh Bắc Kạn đi bộ theo hướng C – N có biểu hiện tàng trữ trái phép chất ma túy. Tổ công tác yêu cầu kiểm tra thì Lâm Văn H đã tự giác giao nộp 01 gói nhỏ được gói bằng giấy một mặt màu trắng, một mặt màu trắng bạc bên trong có chứa chất màu trắng dạng bột nghi là chất ma túy (heroine). Tổ công tác đã tiến hành thử phản ứng phát hiện nhanh chất ma túy (heroine) đối với gói nhỏ chất bột trên. Kết quả thử phản ứng trùng với đặc trưng phản ứng của chất ma túy (heroine), gói nhỏ trên được gói lại như lúc phát hiện và niêm phong trong phong bì ký hiệu “H”. Ngoài ra còn phát hiện và tạm giữ của Lâm Văn H 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu xanh đen, màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, 01 ví màu nâu đã qua sử dụng, 01 giấy chứng minh nhân dân mang tên Lâm Văn H.
Tại biên bản mở niêm phong cân xác định khối lượng chất ma túy ngày 01/6/2020 của Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện B xác định: Số chất bột màu trắng có trong phong bì ký hiệu “H” có khối lượng là 0,167g (không phẩy một sáu bảy gam). Sau khi cân tiến hành niêm phong trong phong bì ký hiệu “GĐ” để gửi cơ quan giám định.
Tại kết luận giám định số 86/KTHS-MT ngày 11/6/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Kạn kết luận: Mẫu chất bột màu trắng trong phong bì ký hiệu “GĐ” gửi giám định là ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,167g (không phẩy một sáu bảy gam).
Quá trình điều tra Lâm Văn H khai nhận: Bản thân là người sử dụng ma túy, gói nhỏ mà H tự giác giao nộp cho tổ công tác Công an huyện B vào ngày 01/6/2020 là ma túy (heroine). H có được số ma túy (heroine) trên là vào khoảng 9 giờ ngày 01/6/2020 tại ngã ba đường Hoàng Văn Thụ thành phố B, tỉnh Bắc Kạn H gặp một người đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở đâu, qua nói chuyện người đàn ông nói có ma túy bán nên H đưa cho người này số tiền 200.000đ để mua ma túy về sử dụng, người đàn ông cầm tiền và đưa lại cho H 01 (một) gói nhỏ ma túy. H cầm gói ma túy cất vào túi áo ngực sau đó bắt xe đi về. Khi đến điểm dừng xe buýt thuộc thôn N, xã C, huyện B H xuống xe đi đến đoạn đường liên xã C – N thuộc thôn N, xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn thì bị tổ công tác Công an huyện B yêu cầu kiểm tra, H đã tự giác giao nộp gói nhỏ ma túy cho tổ công tác.
Tại bản cáo trạng số 34/CT-VKSBT ngày 17 tháng 8 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bắc Kạn truy tố đối với Lâm Văn H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy, qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự.
* Điều luật có nội dung:
1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm;
c) Heroine,…có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.
Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lâm Văn H theo điểm, khoản, điều luật và tội danh như đã viện dẫn ở trên và đề nghị:
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38/BLHS. Xử phạt bị cáo từ 12 tháng đến 15 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 01/6/2020 đến ngày 04/6/2020.
Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47/BLHS; Điều 106/BLTTHS. Về hình phạt bổ sung: Không có tài sản riêng, không áp dụng. Về án phí: Bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo thừa nhận hành vi như cáo trạng truy tố, không có khiếu nại về hành vi tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và xin được giảm nhẹ hình phạt.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.
[2]. Về nội dung, tại phiên tòa xác định: Ngày 01/6/2020 Lâm Văn H đi xe buýt tới thành phố B mua với một người không quen biết được một gói ma túy (heroine) có khối lượng 0,167g, trên đường quay về đến đường liên xã C – N thuộc thôn N, xã C, huyện B, tỉnh Bắc Kạn thì bị phát hiện, H đã tự giác giao nộp gói ma túy cho cơ quan chức năng. Mục đích H mua ma túy là để sử dụng cho bản thân.
Lâm Văn H khai do bị bệnh khớp thường xuyên đau nhức ảnh hưởng đến cuộc sống, nghe người khác mách sử dụng ma túy chữa được bệnh nên từ đầu năm 2020 H đã tìm mua ma túy sử dụng.
Tại phiên tòa bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội, xét thấy lời khai nhận của bị cáo phù hợp với chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ qui định tại điểm c khoản 1 Điều 249/BLHS thấy việc truy tố, xét xử bị cáo Lâm Văn H về tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy là có căn cứ pháp luật.
Xét tính chất hành vi bị cáo thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, vi phạm chính sách quản lý của nhà nước đối với các chất gây nghiện; gây mất trật tự trị an tại địa phương. Cần được xử lý nghiêm bằng hình phạt pháp luật hình sự nhằm giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.
[3]. Xét nhân thân, tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo: Không có tình tiết tăng nặng; được hưởng tình tiết giảm nhẹ “Thành khẩn khai báo” qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS. Bị cáo có cha đẻ được tặng thưởng Huy chương trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, được hưởng thêm tình tiết qui định tại khoản 2 Điều 51/BLHS.
[4]. Đối với người đàn ông đã bán ma túy cho Lâm Văn H tại thành phố B, do không biết tên tuổi địa chỉ nên cơ quan điều tra không có cơ sở xác minh.
[5]. Vật chứng: - 01 phong bì niêm phong ký hiệu “T86” bên trong có chứa mẫu chất bột màu trắng sau giám định còn lại là 0,158g cùng phong bì bao gói cũ; giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu “H” được niêm phong trong phong bì ký hiệu “H2”; 01 phong bì ký hiệu “ĐT” đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG. Tất cả đều không có giá trị sử dụng – tịch thu tiêu hủy.
- 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh đen màn hình cảm ứng đã qua sử dụng bên trong có gắn 01 thẻ sim của bị cáo không liên quan đến hành vi phạm tội; 01 ví màu nâu cũ rách; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lâm Văn H – tất cả trả lại cho bị cáo.
[6]. Về hình phạt bổ sung và án phí: Bị cáo làm ruộng thu nhập thấp, xác minh tại địa phương không có tài sản riêng; bị cáo là người dân tộc thiểu số cư trú ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn thuộc trường hợp được miễn án phí (có đơn xin miễn án phí) nên không áp dụng.
Vì các lẽ trên
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Lâm Văn H phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.
Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự.
Xử phạt: Bị cáo Lâm Văn H 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án, được trừ thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 01/6/2020 đến ngày 04/6/2020.
* Hình phạt bổ sung: Không áp dụng.
* Vật chứng: Căn cứ Điều 47 Bộ luật hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.
- Tịch thu tiêu hủy số vật chứng không có giá trị sử dụng gồm: 01 phong bì niêm phong ký hiệu “T86” bên trong có chứa mẫu chất bột màu trắng sau giám định còn lại là 0,158 g (không phẩy một năm tám gam) cùng phong bì và bao gói cũ; giấy gói và phong bì niêm phong ban đầu ký hiệu “H” được niêm phong trong phong bì ký hiệu “H2”; 01 phong bì ký hiệu “ĐT” đã dùng để niêm phong chiếc điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG.
- Trả lại bị cáo 01 điện thoại di động nhãn hiệu SAMSUNG màu xanh đen màn hình cảm ứng đã qua sử dụng, bên trong có gắn 01 thẻ sim; 01 ví màu nâu cũ rách; 01 chứng minh nhân dân mang tên Lâm Văn H. (Tất cả vật chứng số lượng, tình trạng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an – Thi hành án dân sự huyện B).
* Án phí: Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lâm Văn H.
Bị cáo có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 31/2020/HS-ST ngày 09/09/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 31/2020/HS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ba Bể - Bắc Kạn |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 09/09/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về