Bản án 31/2020/HS-ST ngày 03/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA, TỈNH THANH HÓA

BẢN ÁN 31/2020/HS-ST NGÀY 03/02/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 21/2019/HSST/TLST-HS ngày 30 tháng 12 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 32/2020/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 01 năm 2020 với bị cáo:

Đỗ Huy Đ, Sinh năm 1978; Nơi cư trú: Phường Đ, thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa; Trình độ văn hóa: 12/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Con ông: Đỗ Ngọc N và bà Nguyễn Thị T; Tiền án; Tiền sự: Không.

Nhân thân:

- Ngày 26 tháng 10 năm 1999 Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa ra quyết định đình chỉ điều tra bị can về hành vi “ Trộm cắp tài sản”.

- Năm 2001 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án về hành vi “ Cướp tài sản”.

- Ngày 17/10/2002 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”

- Ngày 22/3/2004 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Ngày 24/8/2006 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 03 năm tù giam về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

- Năm 2010 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm 05-06 tỉnh Thanh Hóa về địa phương tháng 5/2012.

- Năm 2013 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm 05-06 tỉnh Thanh Hóa về địa phương tháng 1/2015.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 21/9/2019; tạm giam từ ngày 27/9/2019; “Có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 21h00’ngày 20/9/2019, tổ công tác Công an phường Đ, thành phố T đang làm nhiệm vụ trên đường H, phường Đ, thành phố T đã kiểm tra xe taxi BKS 36A- 339.62 do Trần Văn L điều khiển. Qua kiểm tra phát hiện dưới sàn xe cạnh chân Đ ngồi ở ghế 01 gói nilon màu trắng, kích thước gói nhỏ (1x1)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng. Đ khai nhận đó là ma túy đá, Đ mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang đối với Đ và thu giữ vật chứng gồm: 01 gói nilong kích thước (1x1)cm, bên trong có chứa các hạt tinh thể màu trắng.

Tại Cơ quan điều tra Đỗ Huy Đ khai nhận: Do bản thân có sử dụng ma túy nên khoảng 20h tối ngày 20/9/2019, Đ đi bộ từ nhà đến cổng trường Cao đẳng y tế Thanh Hóa bắt xe taxi BKS 36A- 339.62 đi đến đường Dã Tượng, phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa gặp và mua được của một người đàn ông khoảng 30 tuổi ( Đ không quen biết) 01 gói ma túy đá giá 200.000 đồng. Sau khi mua được ma túy, Đ tiếp tục lên xe taxi đi. Đến khoảng 21h, xe taxi vừa dừng lại ở đường H, phường Đ, thành phố Thanh Hóa thì tổ công tác Công an phường Đông Vệ thành phố Thanh Hóa kiểm tra, khi Đ nhìn thấy lực lượng Công an thì thả gói ma túy trong tay xuống sàn xe nhưng bị tổ công tác Công an phường Đ phát hiện, bắt quả tang.

Tại Bản kết luận giám định số 2163/MT-PC09 ngày 23/9/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa kết luận: Các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, có tổng khối lượng là 0,197g (không phẩy một chín bảy gam) loại Methamphetamine.

Tại bản cáo trạng số 16/CT – VKS ngày 26 tháng 12 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh hoá truy tố bị cáo Đỗ Huy Đ về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Tại phiên toà đại diện viện kiểm sát nhân dân Thành phố Thanh hoá luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 BLHS; đề nghị xử phạt bị cáo mức án từ 18 đến 24 tháng tù;

Bị cáo nhận tội và công nhận quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát đối với bị cáo là đúng và không có ý kiến tranh luận, bị cáo không nói lời nói sau cùng trước khi Hội đồng xét xử nghị án. Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan Công an thành phố Thanh hóa, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến, không khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên toà hôm nay bị cáo đã khai nhận: Do bản thân nghiện ma túy, nên khoảng 20h00’ ngày 20/9/2019, Bị cáo đi đến khu vực phường Đông Sơn, thành phố Thanh Hóa mua của một người đàn ông không quen biết 01 gói ma túy đá có trọng lượng 0,197 gam giá 200.000 đồng với mục đích sử dụng. Sau khi mua được ma túy đến khoảng 21h cùng ngày bị cáo đi đến đường H, phường Đ, thì tổ công tác Công an phường Đ, thành phố Thanh Hóa kiểm tra, bắt quả tang. Lời khai của bị cáo tại phiên toà hôm nay thống nhất với lời khai trước đây bị cáo đã khai nhận tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

[3] Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Hành vi mua ma túy về với mục đích sử dụng của bị cáo có đủ các yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, tội danh và khung hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của BLHS, như cáo trạng và quan điểm luận tội của đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, đúng pháp luật.

[4] Xét tính chất vụ án, mức độ phạm tội và trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Xét hành vi tàng trữ trái phép chất ma tuý của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bởi những hậu quả rất nghiêm trọng do việc mua bán, vận chuyển, nghiện chất ma tuý gây ra. Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma tuý, xâm phạm trật tự an toàn xã hội, bị cáo hiểu rõ về tác hại của ma túy nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện, do đó cần phải được xử lý nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và có tính phòng ngừa chung.

[5] Xét các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Về tình tiết tăng nặng: Mặc dù bị cáo không có tình tiết tăng nặng, tuy nhiên bị cáo có nhân thân xấu. Ngày 26 tháng 10 năm 1999 trộm cắp tài sản. Cơ quan CSĐT Công an thành phố Thanh Hóa ra quyết định đình chỉ điều tra bị can. Năm 2001 Tòa án nhân dân TP Thanh Hóa ra quyết định tạm đình chỉ vụ án về hành vi “Cướp tài sản”. Ngày 17/10/2002 bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” và tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Ngày 22/3/2004 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”. Ngày 24/8/2006 Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 03 năm tù giam về tội “ Cưỡng đoạt tài sản”; ( các bản án này bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù; về án phí, bị cáo được Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa ra quyết định miễn vào năm 2015). Năm 2010 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm 05-06 tỉnh Thanh Hóa về địa phương tháng 5/2012. Năm 2013 đi cai nghiện bắt buộc tại Trung tâm 05-06 tỉnh Thanh Hóa về địa phương tháng 1/2015, nay bị cáo lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, điều đó chứng tỏ bị cáo không chịu rèn luyện bản thân, xem thường pháp luật, nên cần phải được xử lý nghiêm minh..

Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên toà hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo nên khi quyết định hình phạt cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Do bị cáo mua ma túy với mục đích sử dụng, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo để sung quỹ Nhà nước là phù hợp pháp luật.

[6] Về vật chứng: Số ma túy thu của các bị cáo cã träng l­îng 0,197 gam, mÉu vËt cßn l¹i sau gi¸m ®Þnh 0,119 gam được niêm phong là vật Nhà nước cấm lưu hành cần tịch thu tiêu hủy theo quy định tại khoản 1, điểm a Khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; Điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự; Khoản 1, điểm a khoản 2 Điều 106, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên bố: Bị cáo Đỗ Huy Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”

Xử phạt: Đỗ Huy Đ 24 (Hai mươi bốn) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/9/2019.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 0,119 gam ma túy (mẫu vật còn lại sau giám định) được niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an Tỉnh Thanh Hóa, theo biên bản giao nhận vật chứng số 68 ngày 31 tháng 01 năm 2020 giữa Công an Thành phố Thanh Hóa và Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh hóa.

Về án phí: Bị cáo phải nộp 200.000đ (Hai trăm ngàn đồng) án phí HSST. Người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 7 và điều 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

256
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HS-ST ngày 03/02/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/02/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về