TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BẢN ÁN 31/2020/HS-PT NGÀY 08/01/2020 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Ngày 08 tháng 01 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số: 563/HSPT ngày 10 tháng 12 năm 2019 đối với bị cáo Bùi Văn T do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 167/2019/HSST ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bị cáo có kháng cáo:
Bùi Văn T, sinh năm 1978 tại Kiên Giang; Giới tính: nam; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: ấp CT, xã Vĩnh Tuy, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; quốc tịch Việt Nam; dân tộc: kinh; nghề nghiệp: thợ hồ; trình độ học vấn: 5/12; cha: Bùi Văn T1, mẹ: Nguyễn Thị G (chết); Có vợ (Đã ly hôn) và 02 con (lớn sinh năm 2000, nhỏ sinh năm 2005) ; tiền án, tiền sự: không.
Bị cáo tại ngoại (có mặt).
Người bào chữa:
Luật sư Nguyễn Văn Thái là luật sư thuộc Đoàn luật sư Thành phố Hồ Chí Minh bào chữa cho bị cáo (Có mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Bùi Văn T và Dương Thị Thu H có quan hệ tình cảm với nhau. Khoảng 12 giờ 00 phút ngày 09/12/2018, Bùi Văn T chở Dương Thị Thu H đến phòng trọ của bạn là Huỳnh Thị M tại ấp 4A, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh. Tại đây, Bùi Văn T mượn chị Dương Thị Thu H xe mô tô biển số 61D1-491.91 đi đến Khu Công nghiệp Đông Nam rước bạn thì Dương Thị Thu H đồng ý. Bùi Văn T điều khiển xe 61D1 – 491.91 đi rước bạn nhưng bạn của Bùi Văn T không đến được do buổi chiều còn làm việc. Trên đường về, Bùi Văn T nảy sinh ý định chiếm đoạt xe 61D1-491.91 nên không trở lại nhà bà Mai trả xe cho Dương Thị Thu H . Sau khi chiếm đoạt chiếc xe, Bùi Văn T mở cốp xe 61D1.491.91 kiểm tra thì phát hiện có giấy đăng ký xe 61D1-491.91 tên Nguyễn Thành T; 01 chứng minh nhân dân; 01 giấy phép lái xe mang tên Dương Thị Thu H và 01 sợi dây chuyền bạc. Để không bị phát hiện, Bùi Văn T thay đổi tem xe, thay đổi chổ ở và thay số điện thoại, do đó bà Dương Thị Thu H không liên lạc được với Bùi Văn T. Đến ngày 31/12/2018, Bùi Văn T mang xe 61D1- 491.91cùng giấy đăng ký đến cầm cho ông Vũ Ngọc Đ, chủ tiệm cầm đồ “MC” tại số 53/A66 đường D1, Khu dân cư Viet Sing, khu phố Bình Giao, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương lấy 20.000.000 đồng (hai mươi triệu đồng) tiêu xài hết. Do đến hạn nhưng Bùi Văn T không đến chuộc xe nên ông Vũ Ngọc Đ mang xe bán cho ông Lê Văn N với giá 22.000.000 đồng. Ngày 02/4/2019, bà Dương Thị Thu H tìm gặp được Bùi Văn T đang ở địa chỉ số 42/1 khu phố Bình Giao, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương nên trình báo Công an phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương nên trình báo Công an phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương. Công an phường Thuận Giao mời Bùi Văn T về làm việc và thu hồi xe, giấy đăng ký xe 61D1-491.91.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số167/2019/HSST ngày 08/10/2019 của Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định:
Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T, phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Áp dụng Điểm b Khoản 1 Điều 175; Điểm b, i, s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017;
Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo làm đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt Tại phiên tòa, bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh sau khi tóm tắt nội dung vụ án, phân tích những những tình tiết định tội, định khung hình phạt và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo, đã nhận định: Bản án hình sự sơ thẩm thẩm tuyên xử bị cáo là đúng người, đúng tội, mức hình phạt mà Tòa án nhân dân huyện Củ Chi áp dụng đối với bị cáo là phù hợp. Bị cáo kháng cáo xin 2 chuyển hình phạt tù sang án treo nhưng không cung cấp được tình tiết gì mới nên đề nghị Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh không chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Ngày 09/12/2018, tại địa chỉ ấp 4A, xã Bình Mỹ, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo Bùi Văn T có hành vi lợi dụng sự tin tưởng của bà Dương Thị Thu Dương Thị Thu H đã giao cho bị cáo 01 xe gắn máy hiệu Honda Airblack màu xám đen bạc biển số 61D1-491.91, sau khi nhận được xe, bị cáo đã bỏ trốn để chiếm đoạt chiếc xe này và bên trong cốp xe có giấy đăng ký xe nói trên và 01 sợi dây chuyền bạc có trọng lượng 05 chỉ. Tổng giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt có trị giá là 28.325.000 đồng. Với hành vi của bị cáo đã phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm a khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, tuy nhiên Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 xét xử bị cáo là chưa chính xác. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm điều chỉnh áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175 đối với bị cáo, đồng thời đề nghị Tòa án cấp sơ thẩm rút kinh nghiệm.
Bị cáo kháng cáo, đơn kháng cáo của bị cáo nằm trong hạn luật định là hợp lệ.
Xét, khi lượng hình Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng cho bị cáo các tình tiết giảm nhẹ: bị cáo phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải thuộc trường hợp qui định tại điểm b,i, s khoản 1Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 để từ đó xử phạt bị cáo 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù là có căn cứ và phù hợp.
Bị cáo kháng cáo kháng cáo xin hưởng án treo. Tuy nhiên, bị cáo tại phiên tòa bị cáo không cung cấp thêm chứng cứ mới cho yêu cầu của mình đồng thời không khai được địa chỉ cụ thể đang cư trú nên Hội đồng xét xử không có căn cứ áp dụng án treo đối với bị cáo.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo và giữ nguyên bản án sơ thẩm. Tuyên bố bị cáo Bùi Văn T phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản ”.
- Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 175; Điểm b, i, s khoản 1Điều 51Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Xử phạt bị cáo Bùi Văn T 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án.
Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 31/2020/HS-PT ngày 08/01/2020 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Số hiệu: | 31/2020/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 08/01/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về