Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH SÓC TRĂNG

BẢN ÁN 31/2020/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 29 tháng 9 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Long P, tỉnh Sóc Tng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 197/2020/TLST-HNGĐ ngày 14 tháng 8 năm 2020 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 110/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 9 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ông Lê Minh Đ, sinh năm 1990; Địa chỉ: Khu vực Lân Thạnh 1, phường Trung K, quận , thành phố Cần Thơ (vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).

2. Bị đơn: Bà Trương Thị T, sinh năm 1994; Địa chỉ: Ấp Trường B, xã Trường Kh, huyện Long P, tỉnh Sóc Trăng (vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện về việc xin ly hôn ngày 24/7/2020 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án ông Lê Minh Đ trình bày:

Vào năm 2015, ông và bà T có kết hôn với nhau, kết hôn trên cơ sở do hai bên tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 14/5/2015 tại Uỷ ban nhân dân phường Trung Kiên, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Chung sống được một thời gian thì phát sinh mâu Tẫn do bất đồng ý kiến trong cuộc sống hàng ngày, vợ chồng thường xuyên cải vã, đời sống vợ chồng không hạnh phúc và đã sống ly thân cho đến nay. Nay ông yêu cầu được ly hôn với bà Trương Thị T.

Trong thời gian chung sống ông và bà T có một người con chung tên Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016. Hiện nay cháu Ng đang sống với bà T. Ông đồng ý giao cháu Ng cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng và không cấp dưỡng nuôi con.

Trong quá trình chung sống ông và bà T không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Theo đơn đề nghị vắng mặt ngày 06/9/2020 bà Trương Thị T trình bày:

Bà thống nhất với ý kiến của ông Lê Minh Đ về thời gian, thủ tục kết hôn, con chung, tài sản chung, nợ chung. Trong vụ án này bà có ý kiến như sau:

Về hôn nhân: Bà đồng ý ly hôn với ông Lê Minh Đ.

Về con chung: Trong thời gian chung sống bà và ông Đ có một người con chung tên Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016 và bà yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lê Thị Bảo Ng, không yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con.

Trong quá trình chung sống bà và ông Đ không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Tại phiên toà, vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Long P tham gia phiên tòa phát biểu quan điểm:

Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Xác định đúng quan hệ tranh chấp. Từ khi thụ lý vụ án đến khi đưa vụ án ra xét xử Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Đề nghị áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

+ Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của ông Lê Minh Đ.

+ Về con chung: Giao con chung tên Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016 cho bà T được trực tiếp nuôi dưỡng và ông Đ không cấp dưỡng nuôi con do bà T không yêu cầu.

+ Về tài sản chung, nợ chung: Ông Lê Minh Đ và bà Trương Thị T xác định trong thời gian chung sống không có tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên không đặt ra xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Ti phiên tòa ông Lê Minh Đ và bà Trương Thị T vắng mặt vì có đơn xin giải quyết vằng mặt. Nên căn cứ vào khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với ông Lê Minh Đ và bà Trương Thị T.

[2] Về hôn nhân: Ông Lê Minh Đ và bà Trương Thị T có đăng ký kết hôn vào ngày 14/5/2015 tại Uỷ ban nhân dân phường Trung Kiên, quận Thốt Nốt, thành phố Cần Thơ. Hôn nhân của ông bà tuân thủ các quy định từ Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên pháp luật công nhận quan hệ hôn nhân giữa ông Lê Minh Đ và bà Trương Thị T là hợp pháp.

Ông Lê Minh Đ vẫn giữ nguyên yêu cầu Tòa án xin được ly hôn với bà Trương Thị T. Xét yêu cầu của ông Lê Minh Đ Hội đồng xét xử xét thấy: Trong quá trình chung sống do hai bên bất đồng quan điểm, thường xuyên cải vã, dẫn đến mâu Tẫn, bất đồng về những sinh hoạt trong cuộc sống. Từ khi hai bên đã sống ly thân vào năm 2017 và nguyên đơn chính thức yêu cầu xin ly hôn cho đến nay nhưng hai bên không tìm biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Trong quá trình giải quyết vụ án bà T đồng ý ly hôn với ông Lê Minh Đ. Điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa ông Lê Minh Đ và bà Trương Thị T đã mâu Tẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Lê Minh Đ được ly hôn với bà Trương Thị T.

[3] Về con chung: Ông Lê Minh Đ yêu cầu được giao con chung tên Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016 cho bà Trương Thị T được trực tiếp nuôi dưỡng, ông không cấp dưỡng nuôi con. Bà Trương Thị T có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016, không yêu cầu ông Lê Minh Đ cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, hiện nay cháu Lê Thị Bảo Ng đang sống với bà T và để ổn định cuộc sống, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của cháu. Căn cứ vào khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của ông Lê Minh Đ giao cháu Lê Thị Bảo Ng cho bà Trương Thị T được trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng là có căn cứ.

Ông Lê Minh Đ có quyền thăm nom cháu Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016 không ai được cản trở theo khoản 3 Điều 82 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Bà Trương Thị T cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông Lê Minh Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016 theo khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về cấp dưỡng nuôi con: Ông Lê Minh Đ yêu cầu không cấp dưỡng nuôi con, bà Trương Thị T không yêu cầu ông Đ phải cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung, nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án ông Lê Minh Đ và bà Trương Thị T xác định không có tài sản chung, nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, Do đó, Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết là có căn cứ.

[6]. Về án phí: Ông Lê Minh Đ phải chịu án phí theo qui định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Bà Trương Thị T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

[7]. Như đã phân tích nêu trên xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện Long P về đề nghị giải quyết về hôn nhân, con chung, tài sản chung, nợ chung là có căn cứ nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 81; khoản 3 Điều 82; khoản 2 Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào đim a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức T, miễn giảm, T, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Ông Lê Minh Đ và bà Trương Thị T được ly hôn.

2. Về con chung: Bà Trương Thị T được quyền trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng cháu Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016. Ông Lê Minh Đ có quyền thăm nom cháu Lê Thị Bảo Ng, sinh ngày 03/3/2016 không ai được cản trở.

Bà Trương Thị T cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở ông Lê Minh Đ trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Lê Thị Bảo Ng.

3. Ông Lê Minh Đ không phải cấp dưỡng nuôi con do bà Trương Thị T không yêu cầu.

4. Về tài sản chung, nợ chung: Không có và các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết.

5. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Lê Minh Đ phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số AA/2017/0005969 ngày 12/8/2020 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Long P. Như vậy, ông Lê Minh Đ đã nộp xong tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Trương Thị T không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

6. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Sóc Trăng xét xử theo trình tự phúc thẩm.

7. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa Tận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

180
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 29/09/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:31/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Long Phú - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về