Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 17/07/2020 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 31/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 7 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 58/2019/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 9 năm 2019 về việc ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị A, sinh năm 1999; Địa chỉ: Ấp M, xã N, huyện O, tỉnh Bạc Liêu (có đơn xin xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh B, sinh năm 1979; Địa chỉ: Đài Loan (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 06/9/2019 và biên bản lấy lời khai ngày 01/10/2019, nguyên đơn chị A trình bày: Chị và anh B tự nguyện chung sống, có đăng ký kết hôn và được Ủy nhân dân dân huyện O, tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/12/2017. Sau khi kết hôn, chị và anh B chung sống với nhau được khoảng 01 tuần ở nhà cha mẹ của chị A tại huyện O, tỉnh Bạc Liêu thì anh B về Đài Loan. Từ khi về Đài Loan đến cuối năm 2018 thì anh B sang Việt Nam được 04 lần để thăm chị và làm thủ tục bảo lãnh chị A sang Đài Loan nhưng do chị A phỏng vấn không đạt nên từ cuối năm 2018 đến nay anh B không sang Việt Nam và không liên lạc với chị A nữa. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên chị A yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh B.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung vợ chồng không có, nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Chị A có đơn xin vắng mặt tại phiên xét xử vụ án của Tòa án.

- Đối với bị đơn anh B: Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã thực hiện ủy thác tư pháp tống đạt đầy đủ các văn bản tố tụng của Tòa án theo quy định của pháp luật. Ngày 30/3/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu nhận được Văn bản số 728/BTP-PLQT ngày 19/3/2020 của Bộ Tư pháp Việt Nam thông báo kết quả ủy thác tư pháp cho anh B với nội dung: “…Cơ quan có thẩm quyền của lãnh thổ Đài Loan đã thực hiện ủy thác tư pháp vào ngày 02/12/2019 bằng phương thức: Chuyển cho người sống chung cùng đương sự”. Tuy nhiên, Tòa án không nhận được văn bản trả lời của anh B về những vấn đề có liên quan đến quan hệ hôn nhân giữa anh với chị A và anh B cũng không về Việt Nam tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Bạc Liêu trình bày quan điểm về việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án:

+ Về thủ tục tố tụng: Thông qua kiểm sát việc giải quyết vụ án từ khi thụ lý vụ án tới thời điểm này thấy rằng Thẩm phán đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án. Quá trình giải quyết Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng cho đương sự và Viện kiểm sát đúng theo quy định. Tại phiên tòa hôm nay, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về phiên tòa sơ thẩm.

+ Về nội dung vụ án: Anh B và chị A kết hôn, có đăng ký kết hôn và được Ủy nhân dân dân huyện O, tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/12/2017 là hoàn toàn tự nguyện, do đó, hôn nhân của anh chị là hợp pháp theo pháp luật Việt Nam. Sau khi kết hôn anh chị sống chung với nhau được khoảng 01 tuần thì anh B về Đài Loan, anh chị đã không liên lạc với nhau thời gian dài và chị A xác định không còn tình cảm với anh B, cuộc sống hôn nhân không thể kéo dài. Nay chị A yêu cầu ly hôn, nên giải quyết cho anh chị ly hôn là có căn cứ, phù hợp pháp luật. Do đó, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị A, xử cho chị A được ly hôn với anh B. Về con chung, tài sản chung và nợ chung không có, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết, nên không đặt ra xem xét, giải quyết; án phí hôn nhân và gia đình chị A phải chịu.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, sau khi thảo luận, nghị án; Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh B là người nước ngoài, có quốc tịch Đài Loan và đang cư trú tại địa chỉ: Đài Loan, nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35 và khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu đã thực hiện ủy thác tư pháp tống đạt thông báo thụ lý vụ án và triệu tập hòa giải, triệu tập xét xử đối với anh B theo quy định của pháp luật nhưng không nhận được ý kiến phản hồi của anh B và anh B cũng không về Việt Nam tham gia phiên hòa giải, phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án, nên căn cứ khoản 5 Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với anh B.

[4] Đối với nguyên đơn chị A, ngày 10/6/2020 chị A đã có đơn xin xét xử vắng mặt. Xét thấy, đơn xin xét xử vắng mặt của chị A là phù hợp với quy định pháp luật, nên căn cứ điểm a khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với chị A. Do vụ án vắng mặt cả nguyên đơn và bị đơn nên Tòa án tiến hành xét xử vụ án vắng mặt tất cả những người tham gia tố tụng theo đúng quy định tại Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[5] Về nội dung vụ án: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị A với anh B, chị A xác định chị và anh B tự nguyện kết hôn, có đăng ký ký kết hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam và căn cứ giấy chứng nhận kết hôn do Ủy nhân dân dân huyện O, tỉnh Bạc Liêu cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 12/12/2017 nên đủ cơ sở xác định hôn nhân giữa anh B và chị A là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật Việt Nam bảo vệ. Theo đơn khởi kiện xin ly hôn và lời khai của chị A có cơ sở xác định, sau khi kết hôn anh B chỉ chung sống với chị A trong một thời gian ngắn thì anh B về Đài Loan, anh chị không liên lạc với nhau, cả hai đã không còn sự quan tâm, chăm sóc lẫn nhau và đến nay anh B không sang Việt Nam. Nay chị A xác định hôn nhân của chị và anh B không thể hàn gắn để chung sống với nhau được nữa và yêu cầu ly hôn.

[6] Hội đồng xét xử xét thấy, theo Điều 19 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau, cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”, theo đó thì giữa chị A và anh B đã không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc giúp đỡ nhau, hiện nay anh B và chị A không còn liên lạc với nhau, làm cho hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thực hiện được do mỗi người ở một nơi và không thể đoàn tụ. Do đó, có căn cứ chấp nhận đơn khởi kiện của chị A cho chị A được ly hôn với anh B.

[7] Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Theo chị A xác định anh B và chị A không có con chung, tài sản chung và nợ chung, khi ly hôn chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung, tài sản chung và nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Về án phí và lệ phí ủy thác tư pháp: Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình và lệ phí ủy thác tư pháp, chị A phải chịu toàn bộ theo quy định của pháp luật.

[9] Xét ý kiến của Kiểm sát viên tham gia phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị A và xử cho chị A được ly hôn anh B; Về con chung, tài sản chung và nợ chung chị A không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết; án phí chị A phải chịu toàn bộ. Hội đồng xét xử xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp pháp luật nên được chấp nhận toàn bộ.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 238; Điều 273; Điều 280; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 474; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, khoản 1 Điều 122, khoản 2 Điều 123 và Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị A với anh B.

Xử cho chị A được ly hôn với anh B.

2. Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị A và anh B không có con chung, tài sản chung và nợ chung, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình chị A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), chị A đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo Biên lai thu số 0010211 ngày 16 tháng 9 năm 2019 tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu được chuyển thu án phí toàn bộ.

4. Lệ phí ủy thác tư pháp: Chị A phải chịu lệ phí ủy thác tư pháp 200.000 đồng (Hai trăm ngàn đồng), chị A đã nộp xong 200.000 đồng theo Biên lai thu số 0010135 ngày 01 tháng 10 năm 2019 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Bạc Liêu, không được hoàn lại.

Án xử sơ thẩm công khai, chị A có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết; anh B có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2020/HNGĐ-ST ngày 17/07/2020 về ly hôn

Số hiệu:31/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về