Bản án 31/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội đánh bạc

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIA LỘC, TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 31/2019/HS-ST NGÀY 16/05/2019 VỀ TỘI ĐÁNH BẠC

Ngày 16 tháng 5 năm 2019, tại Tòa án nhân dân huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục rút gọn vụ án hình sự thụ lý số: 33/2019/TLST-HS ngày 24 tháng 4 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử sơ thẩm số: 33/2019/QĐXXST-HS ngày 04 tháng 5 năm 2019, Quyết định hoãn phiên toà số: 07/2019/HSST-QĐ ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Đặng Thanh Th, sinh năm 1955 tại huyện G, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Nh và bà Phạm Thị R; có vợ là Phạm Thị N và có 04 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/3/2019 đến ngày 06/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

2. Nguyễn Văn T1, sinh năm 1983 tại huyện G, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 12/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Thành Ngh và bà Đinh Thị X; có vợ là Võ Thị X và có 02 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/3/2019 đến ngày 06/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

3. Trần Văn K, sinh năm 1971 tại huyện G, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trần Văn C và bà Phạm Thị U1; có vợ là Đinh Thị Q và có 04 con; tiền án: Không; Tiền sự: Ngày 17/7/2018 Công an huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi "đánh bạc", chấp hành xong ngày 18/7/2018, chưa được xoá. Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/3/2019 đến ngày 06/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

4. Đặng Văn U, sinh năm 1957 tại huyện G, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 7/10; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Đặng Văn Nh và bà Phạm Thị R; có vợ là Phạm Thị Th và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không;

Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/3/2019 đến ngày 06/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

5. Nguyễn Văn T2, sinh năm 1973 tại huyện G, tỉnh Hải Dương. Nơi cư trú: Thôn B, xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa (học vấn): 3/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn T3 và bà Đoàn Thị D; có vợ là Bùi Thị T4 và có 03 con; tiền án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ từ ngày 03/3/2019 đến ngày 06/3/2019 được thay thế bằng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú; có mặt.

- Người làm chứng:

1. Anh Đặng Đông Đ, sinh năm 1991; có mặt;

2. Bà Phạm Thị N, sinh năm 1953; vắng mặt.

Đều trú tại: Thôn B, xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương;

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12 giờ 25 phút ngày 03/3/2019, Nguyễn Văn T1, Đặng Văn U, Nguyễn Văn T2 đi đến nhà Đặng Thanh Th ở Thôn B, xã L, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngồi chơi, uống nước. Trong khi ngồi chơi, T1, U, T2, Th cùng rủ nhau đánh bạc được thua bằng tiền dưới hình thức đánh "ba cây" tại nhà ở của Th. Th lấy bộ bài tú lơ khơ (gồm có 36 quân bài) tại bàn uống nước và cùng T1, U, T2 ngồi tại nền nhà ở phòng khách nhà Th đánh bạc từ 12 giờ 30 phút đến khoảng 12 giờ 40 phút cùng ngày thì Trần Văn K đến nhà Th và cùng tham gia đánh bạc với Th, T1, U, T2.

Cách thức đánh bạc như sau: Các bị cáo sử dụng bộ bài tú lơ khơ gồm các quân bài từ A đến 9, tổng cộng có 36 quân bài chia cho mỗi người 3 quân bài (gọi là ba cây), sau đó mỗi người chơi cộng điểm của 3 quân bài của mình bằng cách quân A tính bằng 1 điểm, các quân bài khác tính điểm bằng số tương ứng của quân bài, điểm cao nhất tính là 10 điểm, điểm thấp nhất tính là 01 điểm, nếu tổng điểm cao hơn 10 hoặc 20 điểm thì lấy số dư là điểm tính thắng thua, nếu số điểm bằng nhau thì sẽ so đến chất theo thứ tự: rô, cơ, bích, tép, ai cao điểm nhất thì được quyền cầm chương trước. Trước khi chơi mỗi ván bài, mỗi người chơi đặt cửa thấp nhất là 50.000 đồng vào giữa chiếu bạc để đóng "gà", đặt cao hơn thì tuỳ người chơi đặt để chơi với người cầm chương; người cầm chương tráo bộ bài lên rồi đặt xuống chiếu để cho người ngồi sát bên tay trái người cầm chương bốc 1 quân bài bất kỳ và ngửa lên, sau đó người cầm chương đếm từ vị trí người bốc bài theo chiều kim đồng hồ, nếu số của quân bài trùng với người nào thì chương bắt đầu chia bài từ người đó, người cầm chương chia cho mỗi người chơi 3 quân còn bài thừa để dưới chiếu. Những người chơi cộng điểm và so điểm với người cầm chương, nếu ai có điểm cao hơn điểm của người cầm chương thì thắng chương và được của người cầm chương số tiền bằng số tiền đã đặt, còn nếu thua thì mất số tiền đã đặt, người cao điểm nhất thì được "ăn gà". Trong quá trình chơi nếu ai được 10 điểm thắng chương thì sẽ được cầm chương ván tiếp theo. Cứ như vậy mỗi ván bài diễn ra trong vòng từ 3 đến 5 phút.

Đến 13 giờ 25 phút cùng ngày, lực lượng Công an huyện Gia Lộc phát hiện, bắt quả tang thu giữ tại chiếu bạc số tiền 12.770.000 đồng các bị cáo khai đã sử dụng vào việc đánh bạc và 01 bộ bài tú lơ khơ gồm có 36 quân bài.

Quá trình điều tra, các bị cáo khai nhận khi bắt đầu đánh bạc có số tiền sử dụng vào việc đánh bạc như sau: Đặng Thanh Th có 420.000 đồng và thu tiền hồ của 04 bị cáo được 200.000 đồng (mỗi người nộp cho Th 50.000 đồng tiền hồ) sử dụng hết vào việc đánh bạc, tổng số tiền là 620.000 đồng; Nguyễn Văn T1 có 2.000.000 đồng; Nguyễn Văn T2 có 600.000 đồng; Đặng Văn U có 900.000 đồng; Trần Văn K có 2.000.000 đồng. Tuy nhiên các bị cáo đều xác định tổng số tiền 12.770.000 đồng thu trên chiếu bạc là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc.

Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 33/QĐ-VKS-GL ngày 23/4/2019, Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) huyện Gia Lộc truy tố các bị cáo về tội "Đánh bạc" theo khoản 1 Điều 321 Bộ luật Hình sự (BLHS).

Tại phiên toà:

Đại diện VKSND huyện Gia Lộc giữ nguyên quyết định truy tố, đề nghị Toà án: Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 321, Điều 17, Điều 58; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; các điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; các điểm a, b khoản 2 Điều 106, Điều 135, Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); Căn cứ khoản 2 Điều 51 BLHS đối với các bị cáo Đặng Thanh Th, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn T2, Đặng Văn U. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với các bị cáo Trần Văn K, Nguyễn Văn T1 và Nguyễn Văn T2. Căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Luật người cao tuổi đối với các bị cáo Đặng Thanh Th và Đặng Văn U. Căn cứ Điều 38 BLHS đối với bị cáo K;

Căn cứ Điều 36 BLHS đối với bị cáo Th, bị cáo T1. Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS đối với bị cáo U, bị cáo T2.

Tuyên bố các bị cáo Đặng Thanh Th, Nguyễn Văn T1, Trần Văn K, Đặng Văn U và Nguyễn Văn T2 phạm tội "Đánh bạc".

Xử phạt bị cáo K từ 9 đến 11 tháng tù được trừ 03 ngày tạm giữ, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án.

Xử phạt bị cáo Th từ 8 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo T1 từ 8 đến 10 tháng tù cho hưởng án treo, ấn định thời gian thử thách.

Xử phạt bị cáo U từ 12 đến 14 tháng cải tạo không giam giữ được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập của bị cáo từ 5% đến 10%.

Xử phạt bị cáo T2 từ 9 đến 11 tháng cải tạo không giam giữ được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ, khấu trừ thu nhập của bị cáo từ 5% đến 10%.

Hình phạt bổ sung: Phạt tiền mỗi bị cáo từ 10.000.000 đồng đến 12.000.000 đồng.

Về vật chứng: Tịch thu tiêu huỷ một bộ bài gồm có 36 quân. Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 12.770.000 đồng.

Về án phí: Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Th và bị cáo U; các bị cáo khác mỗi người phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, công nhận quyết định truy tố, luận tội của VKSND huyện Gia Lộc đối với bị cáo là đúng và nói lời sau cùng đề nghị Toà án xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo và đề nghị được hưởng án treo, cải tạo tại địa phương.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên toà, Tòa án nhận định như sau:

[1] Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Gia Lộc, Điều tra viên, VKSND huyện Gia Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của BLTTHS. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo, người làm chứng không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đảm bảo tính hợp pháp.

[2] Lời khai của các bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang và các tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Trong khoảng thời gian từ 12 giờ 30 phút đến 13 giờ 25 phút ngày 03/3/2019, các bị cáo Đặng Thanh Th, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn T2, Đặng Văn U và Trần Văn K đã cùng nhau đánh bạc trái phép, sát phạt nhau bằng tiền dưới hình thức đánh ba cây tại nhà của Đặng Thanh Th ở Thôn B, xã L, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 12.770.000 đồng.

[3] Các bị cáo Th, T1, U, T2, K tham gia đánh bạc đều là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ được hành vi đánh bạc trái phép là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn thu lợi bất chính các bị cáo vẫn cố ý cùng nhau thực hiện; bị cáo Th là người chuẩn bị công cụ cho các bị cáo đánh bạc trái phép tại nhà ở của mình, có thu tiền hồ (tổng 200.000 đồng) nhưng với quy mô không lớn nên hành vi của bị cáo Th chưa đủ yếu tố cấu thành tội "gá bạc" mà đồng phạm với các bị cáo khác về hành vi "đánh bạc". Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc là 12.770.000 đồng nên hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội "đánh bạc" theo quy định tại khoản 1 Điều 321 BLHS. Như vậy, Quyết định truy tố của VKSND huyện Gia Lộc đối với các bị cáo là có căn cứ.

[4] Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm trật tự an toàn công cộng, nếp sống văn minh của xã hội nên cần thiết phải áp dụng một hình phạt nghiêm đối với các bị cáo thì mới có tác dụng giáo dục, trừng trị, răn đe và đấu tranh phòng ngừa tội phạm chung.

[5] Vai trò, tính chất, mức độ hành vi của từng bị cáo: Đây là vụ án đồng phạm giản đơn vì các bị cáo chỉ nhất thời phạm tội, không có sự câu kết, tổ chức chặt chẽ; trong vụ án này các bị cáo đều thống nhất đánh bạc, bị cáo Th là người chuẩn bị bộ bài 36 quân bài, cho các bị cáo khác đánh bạc trái phép tại nhà ở của mình, có thu tiền hồ và trực tiếp đánh bạc (có 620.000 đồng) nên giữ vai trò đầu vụ; bị cáo T1 và bị cáo K đều có số tiền sử dụng vào việc đánh bạc nhiều nhất (2.000.000 đồng) nhưng bị cáo T1 tham gia đánh bạc từ đầu, bị cáo K vào sau nên bị cáo T1 giữ vai trò thứ hai, bị cáo K có vai trò thứ ba, tiếp đến là bị cáo U (có 900.000 đồng) và bị cáo T2 (có 600.000 đồng) giữ vai trò cuối vụ.

[6] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, lần phạm tội này của các bị cáo là lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên các bị cáo đều được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 BLHS; bị cáo Th được tặng bằng khen, bị cáo U được tặng kỷ niệm chương thanh niên xung phong; bị cáo T2 và bị cáo T1 đều có bố đẻ được tặng thưởng huân, huy chương nên các bị cáo Th, T1, T2, U được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS.

[8] Nhân thân các bị cáo: Các bị cáo Th, T1, T2, U đều có nhân thân tốt. Bị cáo K vào ngày 17/7/2018 bị Công an huyện Gia Lộc xử phạt hành chính về hành vi đánh bạc, hình thức phạt tiền (bị cáo nộp phạt ngày 18/7/2018) chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

[9] Bị cáo K có nhân thân xấu nên cần cách ly bị cáo khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt biết tôn trọng và chấp hành pháp luật. Bị cáo Th tuy giữ vai trò đầu vụ nhưng bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, bản thân bị cáo đang bị bệnh k dạ dày (đã cắt 2/3 dạ dày); các bị cáo T1, T2, U đều có nhân thân tốt, được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng nên không cần bắt các bị cáo này phải cách ly khỏi xã hội mà cho bị cáo Th, bị cáo T1 được hưởng án treo; bị cáo U, bị cáo T2 được cải tạo không giam giữ cũng đủ tác dụng giáo dục đối với các bị cáo thành người có ích cho xã hội. Do bị cáo U, bị cáo T2 bị phạt cải tạo không giam giữ nên bị khấu trừ một phần thu nhập theo quy định.

[10] Về hình phạt bổ sung: Các bị cáo phạm tội với mục đích thu lợi nên cần áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[11] Về vật chứng vụ án: Số tiền 12.770.000 đồng là tiền các bị cáo sử dụng vào việc đánh bạc nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước. Bộ bài tú lơ khơ 36 quân là công cụ phạm tội nên cần tịch thu tiêu huỷ.

[12] Bà Phạm Thị N là vợ bị cáo Th không biết các bị cáo đánh bạc tại nhà ở của mình; anh Đặng Đông Đ không tham gia đánh bạc mà chỉ ngồi xem các bị cáo đánh bạc nên đều không phải chịu trách nhiệm.

[13] Về án phí: Các bị cáo phạm tội nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Tuy nhiên bị cáo Th và bị cáo U đều trên 60 tuổi nên được miễn án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1, khoản 3 Điều 321; Điều 17, Điều 58; các điểm i, s khoản 1 Điều 51; các điểm a, b khoản 1 Điều 47 BLHS; các điểm a, b khoản 2 Điều 106, các điều 135, 136, 331, 333 BLTTHS đối với cả 5 bị cáo.

Căn cứ khoản 2 Điều 51 BLHS đối với các bị cáo Đặng Thanh Th, Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn T2, Đặng Văn U.

Căn cứ Điều 38 BLHS đối với bị cáo Trần Văn K.

Căn cứ khoản 1, khoản 2 Điều 65 BLHS đối với bị cáo Đặng Thanh Th và bị cáo Nguyễn Văn T1.

Căn cứ Điều 36 BLHS đối với bị cáo Nguyễn Văn T2 và bị cáo Đặng Văn U.

Căn cứ Luật người cao tuổi; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với bị cáo Đặng Thanh Th và bị cáo Đặng Văn U.

Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án đối với các bị cáo Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Văn K.

1. Tuyên bố: Các bị cáo Đặng Thanh Th, Nguyễn Văn T1, Trần Văn K, Đặng Văn U và Nguyễn Văn T2 phạm tội "Đánh bạc".

2. Hình phạt chính:

+ Xử phạt bị cáo Đặng Thanh Th 09 (chín) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T1 08 (tám) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 16 (mười sáu) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

+ Xử phạt bị cáo Trần Văn K 10 (mười) tháng tù được trừ 03 ngày tạm giữ, bị cáo còn phải chấp hành 09 (chín) tháng 27 (hai mươi bẩy) ngày tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt thi hành án.

+ Xử phạt bị cáo Đặng Văn U 12 (mười hai) tháng cải tạo không giam giữ được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ, bị cáo còn phải chấp hành 11 (mười một) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày cải tạo không giam giữ; thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày Uỷ ban nhân dân (UBND) xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 10% thu nhập hàng tháng của bị cáo để sung quỹ Nhà nước trong thời gian cải tạo không giam giữ.

+ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T2 11 (mười một) tháng cải tạo không giam giữ được trừ 03 ngày tạm giữ bằng 09 ngày cải tạo không giam giữ, bị cáo còn phải chấp hành 10 (mười) tháng 21 (hai mươi mốt) ngày cải tạo không giam giữ; thời hạn cải tạo không giam giữ tính từ ngày UBND xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án. Khấu trừ 10% thu nhập hàng tháng của bị cáo để sung quỹ Nhà nước trong thời gian cải tạo không giam giữ.

Giao bị cáo Đặng Thanh Th, bị cáo Nguyễn Văn T1 cho UBND xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo. Bị cáo Th, bị cáo T1 thực hiện các nghĩa vụ trong thời gian thử thách theo quy định của Luật Thi hành án hình sự. Trường hợp bị cáo Th, bị cáo T1 thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 69 của Luật Thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu người được hưởng án treo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật Thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc người đó phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Giao bị cáo Đặng Văn U, bị cáo Nguyễn Văn T2 cho UBND xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương giám sát, giáo dục trong thời gian cải tạo không giam giữ. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã L, huyện G, tỉnh Hải Dương trong việc giám sát, giáo dục bị cáo.

3. Hình phạt bổ sung: Phạt tiền các bị cáo Đặng Thanh Th, Nguyễn Văn T1, Trần Văn K, Đặng Văn U và Nguyễn Văn T2 mỗi bị cáo 10.000.000đ (mười triệu đồng) sung vào ngân sách Nhà nước.

4. Về vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước số tiền 12.770.000đ (mười hai triệu bẩy trăm bẩy mươi nghìn đồng). Tịch thu tiêu huỷ 01 bộ bài tú lơ khơ 36 quân bài. (Đặc điểm vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng giữa Công an huyện Gia Lộc và Chi cục Thi hành án dân sự huyện Gia Lộc ngày 25 tháng 4 năm 2019).

5. Về án phí: Buộc các bị cáo Nguyễn Văn T1, Nguyễn Văn T2 và Trần Văn K mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Đặng Thanh Th và bị cáo Đặng Văn U.

6. Về quyền kháng cáo: Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

283
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HS-ST ngày 16/05/2019 về tội đánh bạc

Số hiệu:31/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Gia Lộc - Hải Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về