TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN NGÔ QUYỀN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 15 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 140/2019/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2019 về ly hôn, tranh chấp về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 376/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 7 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 430/2019/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị D; nơi ĐKHKTT: Số 136 đường N, phường C, quận L, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 7A/67/50/286 đường L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; có mặt.
- Bị đơn: Anh Phạm Thế H; nơi ĐKHKTT: Số 136 đường N, phường C, quận L, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Số 7A/67/50/286 đường L, phường M, quận N, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Trong đơn khởi kiện đề ngày 15 tháng 3 năm 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị D trình bày:
Chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Thế H lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn ngày 15/01/2009 tại Ủy ban nhân dân phường Thành Tô, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Đến nay vợ chồng có 02 con chung là Phạm Nguyễn Minh Ngọc, sinh ngày 26/8/2009 và Phạm Minh Hà, sinh ngày 13/8/2014.
Quá trình chung sống, vợ chồng hòa thuận đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân chủ yếu là do anh H nghiện rượu chè cờ bạc dẫn đến nợ nần nhiều người, bị buộc thôi việc và sống không có trách nhiệm gia đình vợ con và kinh tế khó khăn. Chính vì nguyên nhân như vậy nên chị D và anh H sống với nhau không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra căng thẳng cãi vã nhau. Mâu thuẫn của vợ chồng đã được hai bên gia đình và bạn bè kHên giải nhiều lần nhưng không giảm. Từ đầu năm 2014, chị D và anh H sống ly thân không còn quan tâm trách nhiệm với nhau về mọi mặt. Nay chị D xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân 05 năm nay không còn khả năng đoàn tụ, chị D đề nghị Toà án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Thế H.
Về con chung: Chị D và anh H có 02 con chung là Phạm Nguyễn Minh Ngọc, sinh ngày 26/8/2009 và Phạm Minh Hà, sinh ngày 13/8/2014. Ly hôn, chị D xin nhận nuôi dưỡng hai con chung đến khi thành niên và không yêu cầu anh H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Chị D và anh H không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh Phạm Thế H đến trụ sở Tòa án để viết bản tự khai, tiến hành kiểm tra giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do.
Tiến hành xác minh thu thập chứng cứ tại địa phương và gia đình, kết quả đã thu thập được như sau: Chị D và anh H lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 15/01/2009 tại Ủy ban nhân dân phường Thành Tô, quận Hải An, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống chị D anh H có 02 con chung là Phạm Nguyễn Minh Ngọc, sinh ngày 26/8/2009 và Phạm Minh Hà, sinh ngày 13/8/2014 . Từ năm 2014 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, nguyên nhân chủ yếu là do anh H thường xuyên rượu chè cờ bạc nợ nần dẫn đến bị buộc thôi việc và gia đình kinh tế khó khăn. Địa phương và gia đình đã hòa giải nhiều lần nhưng không có kết quả. Nay chị D có đơn xin ly hôn anh H thì đề nghị Tòa án căn cứ vào tình trạng hôn nhân thực tế để giải quyết theo quy định của pháp luật. Về con chung và tài sản chung: Đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa hôm nay: Chị D giữ nguyên quan điểm như trên và đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H vì mâu thuẫn đã trầm trọng, vợ chồng sống ly thân đã hơn 05 năm nay, không còn khả năng đoàn tụ. Về con chung: Chị D xin nhận nuôi dưỡng hai con chung là Phạm Nguyễn Minh Ngọc, sinh ngày 26/8/2009 và Phạm Minh Hà, sinh ngày 13/8/2014 đến khi thành niên và không yêu cầu anh H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung: Chị D và anh H không có, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Anh Phạm Thế H vắng mặt phiên tòa lần thứ hai, không có lý do.
Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu: Qua nghiên cứu hồ sơ thấy rằng việc thụ lý vụ án cũng như quá trình xây dựng lập hồ sơ và tại phiên tòa Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các trình tự quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, các đương sự: Phía nguyên đơn đã tuân thủ và thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, phía bị đơn không chấp hành đúng với các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về nội D vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử xử cho chị D được ly hôn với anh H và giao hai con chung cho chị D nuôi dưỡng đến khi thành niên; về tài sản chung, chị D không yêu cầu nên không xem xét giải quyết. Về án phí: Chị D phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Tòa án nhận định:
- Về quan hệ hôn nhân:
[1] Chị Nguyễn Thị D và anh Phạm Thế H lấy nhau trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán, có đăng ký kết hôn ngày 15/01/2009 tại Ủy ban nhân dân phường Thành Tô, quận Hải An, thành phố Hải Phòng nên quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp.
[2] Quá trình chung sống, đến năm 2014 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng. Nguyên nhân mâu thuẫn chủ yếu là do bất đồng quan điểm sống, tính tình không phù hợp và kinh tế khó khăn. Chị D và anh H đã sống ly thân 05 năm nay, không còn quan tâm trách nhiệm đến nhau về mọi mặt.
[3] Xét cuộc sống chung của chị D và anh H mâu thuẫn trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần giải quyết cho chị D được ly hôn với anh H là phù hợp với thực tế và quy định của pháp luật. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị D đối với anh H.
- Về việc nuôi con:
[4] Chị D và anh H có 02 con chung là Phạm Nguyễn Minh Ngọc, sinh ngày 26/8/2009 và Phạm Minh Hà, sinh ngày 13/8/2014. Ly hôn, chị D xin nhận nuôi dưỡng hai con chung đến khi thành niên. Xét hai con chung còn nhỏ, cần sự chăm sóc trực tiếp của người mẹ hơn. Mặt khác, nguyện vọng của cháu Phạm Nguyễn Minh Ngọc muốn ở với mẹ đến khi thành niên. Do vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao cháu Ngọc và cháu Hà cho chị D trực tiếp nuôi đến khi hai cháu đủ 18 tuổi. Chị D không yêu cầu anh H đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về việc chia tài sản:
[5] Chị D không yêu cầu Toà giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về án phí:
[6] Chị D phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự;
Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị D được ly hôn với anh Phạm Thế H.
2. Về việc nuôi con: Giao con chung Phạm Nguyễn Minh Ngọc, sinh ngày 26/8/2009 và Phạm Minh Hà, sinh ngày 13/8/2014 cho chị D trực tiếp nuôi cho đến khi mỗi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung, chị D không yêu cầu anh H đóng góp, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.
Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.
3. Về việc chia tài sản: Chị Nguyễn Thị D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.
4. Về án phí: Chị Nguyễn Thị D phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm. Chị D đã nộp tạm ứng số tiền 300.000 (ba trăm nghìn) đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng theo biên lai số 0015730 ngày 08 tháng 4 năm 2019. Chị Nguyễn Thị D đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.
5. Về quyền kháng cáo:
Nguyên đơn chị Nguyễn Thị D có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bị đơn anh Phạm Thế H có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.
Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án.
Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 15/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 31/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Quận Ngô Quyền - Hải Phòng |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/08/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về