Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH XUYÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 14/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 14 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bình Xuyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 179/2019/TLST-HNGĐ ngày 23 tháng 7 năm 2019 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con”, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 59/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Khánh L, sinh năm 1988

Địa chỉ: Khu phố 1, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc “có mặt”.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đình H, sinh năm 1987

Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Khu phố 1, thị trấn H, huyện B, tỉnh Vĩnh Phúc

Hiện đang chấp hành án phạt tù tại: Phân trại số 4, Trại giam Quyết Tiến, tổng cục VIII, Bộ Công an “vắng mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn đề ngày 03 tháng 7 năm 2019 và các lời khai tiếp theo tại Tòa án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Khánh L trình bày:

Chị đăng ký kết hôn với anh Nguyễn Đình H ngày 11 tháng 4 năm 2006 tại Ủy ban nhân dân thị trấn Hương Canh, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Trước khi kết hôn có được tự do tìm hiểu và việc kết hôn là hoàn toàn tự nguyện. Sau khi kết hôn, thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận về sau có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm trong cách sống dẫn đến thỉnh thoảng có cãi nhau. Sau đó anh H có hành vi vi phạm pháp luật đến năm 2013 bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 13 năm tù về tội “Giết người” hiện đang chấp hành án phạt tù tại phân trại 4, trại giam Quyết Tiến, tổng cục VIII, Bộ Công an. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh H không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị và anh Nguyễn Đình H có hai con chung là Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007 và Nguyễn Tùng Anh, sinh ngày 02 tháng 02 năm 2010, các cháu đang ở với chị. Ly hôn, chị xin được tiếp tục nuôi cháu Huy và cháu Anh và không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Đình H vắng mặt tại phiên tòa nhưng tại biên bản lấy lời khai ngày 04 tháng 10 năm 2019 anh H trình bày và xác nhận: Về thời gian kết hôn, quá trình chung sống như chị Nguyễn Thị Khánh L trình bày là đúng anh không bổ sung gì. Trong quá trình chung sống ban đầu anh và chịL sống hòa thuận hạnh phúc. Năm 2013 anh bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 13 năm tù về tội “Giết người” hiện đang chấp hành án phạt tù tại phân trại 4, Trại giam Quyết Tiến, tổng cục VIII, Bộ Công an. Nay chịL xin ly hôn anh đồng ý.

Về con chung: Anh và chị Nguyễn Thị Khánh L có hai con chung là Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007 và Nguyễn Tùng Anh, sinh ngày 02 tháng 02 năm 2010, các cháu đang ở với chịL. Ly hôn, anh đồng ý để chịL tiếp tục nuôi dạy hai cháu.

Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Đình H đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh.

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Xuyên phát biểu quan điểm như sau: Trong quá trình giải quyết vụ án từ thời điểm nhận đơn khởi kiện cho đến khi thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình điều tra, thu thập chứng cứ và việc chấp hành thời hạn chuẩn bị xét xử từ khi thụ lý vụ án cho đến khi xét xử Thẩm phán giải quyết vụ án đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Những yêu cầu, kiến nghị về thủ tục tố tụng: Không có.

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử cho chị Nguyễn Thị Khánh L được ly hôn anh Nguyễn Đình H.

Giao cho chị Nguyễn Thị Khánh L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007 và Nguyễn Tùng Anh, sinh ngày 02 tháng 02 năm 2010.

Chị Nguyễn Thị Khánh L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Khánh L khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho được ly hôn với anh Nguyễn Đình H và giải quyết về con chung; do đó đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Xuyên.

Tại phiên tòa bị đơn anh Nguyễn Đình H vắng mặt nhưng anh có đề nghị Tòa án xét xử vụ án vắng mặt anh nên Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh H theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ Hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Khánh L kết hôn với anh Nguyễn Đình H có đăng ký kết hôn, đây là cuộc hôn nhân tự nguyện, hợp pháp. Theo lời trình bày của chị Nguyễn Thị Khánh L và anh Nguyễn Đình H thì sau khi kết hôn, thời gian đầu chịL và anh H chung sống hòa thuận, hạnh phúc. Năm 2013 anh H bị Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc xử phạt 13 năm tù về tội “Giết người” hiện đang chấp hành án phạt tù tại Trại giam Quyết Tiến, tổng cục VIII, Bộ Công an. Nay chịL xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên xin ly hôn với anh H, anh H đồng ý. Hội đồng xét xử thấy: Anh H đi chấp hành án phạt tù từ năm 2013 cho đến nay với mức hình phạt 13 năm tù nên không thể chăm lo cho cuộc sống gia đình và không cùng chịL tạo dựng được một gia đình hạnh phúc vì vậy làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận cho chịL và anh H được ly hôn theo yêu cầu của các đương sự và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

[3] Về con chung: Căn cứ vào lời khai của các đương sự và giấy khai sinh của cháu Huy và cháu Anh do chị Nguyễn Thị Khánh L giao nộp tại Tòa án thì chịL và anh Nguyễn Đình H có hai con chung là Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007 và Nguyễn Tùng Anh, sinh ngày 02 tháng 02 năm 2010 (Hiện đang ở với chịL). Ly hôn, chịL và anh H đều thống nhất để chịL tiếp tục nuôi dưỡng cháu Huy và cháu Anh. Hiện các cháu đều đã trên bẩy tuổi, Tòa án tiến hành lấy lời khai của các cháu, các cháu đều xin ở với mẹ là chịL và hiện anh H đang đi chấp hành án nên không có điều kiện để chăm sóc và nuôi dạy con chung. Do vậy, giao cho chịL tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục cháu Huy và cháu Anh theo như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát và nguyện vọng của chịL, anh H là phù hợp với quy định của pháp luật. Anh H phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chịL.

[4] Về tài sản: Chị Nguyễn Thị Khánh L và anh Nguyễn Đình H không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị Khánh L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Cho chị Nguyễn Thị Khánh L và anh Nguyễn Đình H được ly hôn.

Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Khánh L tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng Nguyễn Đình Huy, sinh ngày 03 tháng 12 năm 2007 và Nguyễn Tùng Anh, sinh ngày 02 tháng 02 năm 2010 (Hai cháu đang ở cùng chịL), anh Nguyễn Đình H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom con không ai được cản trở.

Về án phí: Chị Nguyễn Thị Khánh L phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2017/0003531 ngày 22 tháng 7 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bình Xuyên. Chị L đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm. Đương sự có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

193
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 14/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Xuyên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về