Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN N - TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 31/2019/HNGĐ-ST NGÀY 06/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP VIỆC NUÔI CON

Ngày 06/8/2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình. Tòa án nhân dân huyện N mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 51/2019/TLST-HNGĐ ngày 11/03/2019 về việc “Ly hôn và tranh chấp về việc nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 02/7/2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 16/2019/QĐST-HNGĐ ngày 22/7/2019 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Hà Thị N, sinh năm 1964.

Địa chỉ: Thôn S, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn D, sinh năm 1969.

Địa chỉ: Thôn S, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình.

(Chị N có mặt, anh D vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện về việc xin ly hôn đề ngày 17/01/2019 và các lời khai tại Tòa án nhân dân huyện N cũng như tại phiên tòa chị Hà Thị N trình bày:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Phạm Văn D lấy nhau có Đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S ngày 29/03/2006 dựa trên cơ sở tự nguyện. Sau khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống cùng nhau tại thôn S, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình cho đến nay.Từ khi kết hôn vợ chồng anh chị chung sống hạnh phúc được khoảng 8 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bản thân anh D không chịu khó làm ăn, thường xuyên rượu chè, đánh đập chửi bới vợ con, không có trách nhiệm với gia đình. Dẫn đến vợ chồng thường xuyễn cãi chửi đánh nhau. Mâu thuẫn sâu sắc nhất khoảng giữa năm 2016 cũng vì nguyên nhân trên vợ chồng tiếp tục cãi chửi đánh nhau nên mặc dù chị và anh D vẫn chung sống cùng nhà nhưng vợ chồng chấm dứt quan hệ sinh lý và không ai quan tâm đến ai về mọi mặt. Chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên để nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn D.

2. Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung cháu Phạm Thanh T, sinh ngày 13/02/2004 và cháu Phạm Hải L, sinh ngày 12/5/2006, hiện nay cả 2 cháu đều đang ở với chị. Nếu ly hôn chị có nguyện vọng nuôi cả hai con chung và không đề nghị anh D phải cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chúng tôi tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về công nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Văn D thừa nhận thời điểm đăng ký kết hôn, diễn biến quá trình vợ chồng chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn và về con chung cũng như tài sản chung, công nợ chung như chị N đã trình bày. Anh D có thừa nhận việc bản thân có uống rượu và khi uống rượu về thì có to tiếng với vợ con. Nay chị N làm đơn xin ly hôn thì anh D không đồng ý vì anh còn tình cảm với chị N, anh muốn vợ chồng cùng nhau nuôi dạy con cái.

Về con chung: Nếu ly hôn các cháu muốn ở với ai anh cũng đồng ý. Tại phiên tòa nguyên đơn vẫn giữ nguyên quan điểm.

Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

* Về thủ tục tố tụng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và thư ký phiên tòa đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã thực hiện và chấp hành quyền và nghĩa vụ đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn không tham gia đầy đủ các buổi hòa giải, không tham gia phiên tòa mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ.

* Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 5; Điều 147; Điều 227; Điều 228; Điều 266; Điều 271 và khoản 1 Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Hà Thị N. Xử ly hôn giữa chị Hà Thị N và anh Phạm Văn D.

- Về con chung: Giao cháu cháu Phạm Thanh T, sinh ngày 13/02/2004 và cháu Phạm Hải L, sinh ngày 12/5/2006 cho chị Hà Thị N chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh D không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị Năm.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải chịu án phí ly hôn theo quy định pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thủ tục tố tụng:

[1.1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Đây là quan hệ pháp luật “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con sau ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Bị đơn anh Phạm Văn D cư trú tại thôn S, xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình nên Tòa án nhân dân huyện N, tỉnh Ninh Bình thụ lý vụ án là phù hợp với quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[1.2]. Về sự vắng mặt của các đương sự: Bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử theo thủ tục chung.

[2]. Về nội dụng khởi kiện: Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đương sự cung cấp và Tòa thu thập được, thấy rằng:

[2.1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị Hà Thị N và anh Phạm Văn D kết hôn trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện N, tỉnh Ninh Bình ngày 29/03/2006 nên hôn nhân giữa chị N và anh D là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng chị N, anh D hạnh phúc đến khoảng 8 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chính là do anh D không chịu khó làm ăn, thường xuyên rượu chè, đánh đập chửi bới vợ con, không có trách nhiệm với gia đình. Dẫn đến vợ chồng thường xuyễn cãi chửi đánh nhau. Điều này thể hiện tại biên bản xác minh của UBND xã S. Mâu thuẫn sâu sắc nhất khoảng năm 2016 nên đến đầu năm 2017 chị N đã làm đơn xin ly hôn với anh D nhưng vì thương các con còn nhỏ nên chị N đã rút đơn và Tòa án đã đình chỉ giải quyết vụ án. Tuy nhiên, anh D không thay đổi để cải thiện tình cảm vợ chồng mà vẫn thường xuyên uống rượu rồi về chửi bới vợ con. Trong quá trình giải quyết vụ án bị đơn anh Phạm Văn D xác định không muốn ly hôn nhưng anh D cũng không có biện pháp tích cực để hàn gắn quan hệ vợ chồng. Từ năm 2016 mặc dù vợ chồng anh chị vẫn sống chung nhà nhưng không có sự quan tâm nhau về mọi mặt cho đến nay. Điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng chị N, anh D đã thực sự sâu sắc, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị N là có căn cứ, phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

* Về con chung: Vợ chồng chị N, anh D có 02 con chung là cháu Phạm Thanh T, sinh ngày 13/02/2004 và cháu Phạm Hải L, sinh ngày 12/5/2006, hiện nay cả 2 cháu đều đang ở với anh chị. Anh D và chị N đều có nguyện vọng nuôi hai con nếu hai con đồng ý. Hội đồng xét xử xét thấy cả hai cháu Lý và cháu Tâm đều là con gái đang độ tuổi mới lớn cần có sự quan tâm chăm sóc của người mẹ và các cháu cũng có nguyện vọng được ở với chị N. Chị N ngoài làm ruộng còn đi làm thuê nên có thu nhập ổn định khoảng 200.000đ/1 ngày. Anh D cũng đồng ý người trực tiếp nuôi con theo nguyện vọng của các con chung. Do vậy, để đảm bảo lợi ích về mọi mặt của các con, xét thấy cần giao cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng cháu Phạm Thanh T và cháu Phạm Hải L là phù hợp.

* Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị N không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xét đây là sự tự nguyện không trái pháp luật và đạo đức xã hội cần chấp nhận.

* Về tài sản chung: Các đương sự xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra vấn đề giải quyết trong vụ án này.

*Về công nợ chung: Các đương sự xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét là phù hợp.

* Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ: Điều 5; Điều 147; Điều 266; Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự.

Áp dụng:

- Các điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình.

- Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hà Thị N. Xử ly hôn giữa chị Hà Thị N và anh Phạm Văn D

2. Về con chung: Giao cháu Phạm Thanh T, sinh ngày 13/02/2004 và cháu Phạm Hải L, sinh ngày 12/5/2006 hiện nay đang ở với chị N, anh D cho chị N tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi. Anh D không phải có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị N.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị N phải nộp là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng). Chi Thủy đã nộp 300.000đ tiền tạm ứng án phí theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2018/0000066 ngày 11/03/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện N nay chuyển sang án phí.

4. Án xử công khai sơ thẩm, chị N được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày từ ngày tuyên án, anh D được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

206
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2019/HNGĐ-ST ngày 06/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:31/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Nho Quan - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về