Bản án 31/2018/HS-ST ngày 16/04/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN LỘC, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 31/2018/HS-ST NGÀY 16/04/2018 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 16 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 03/2018/HSST ngày 05 tháng 01 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 23/2018/QĐXXST-HS ngày 05 tháng 3 năm 2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2018/HSST-QĐ ngày 04 tháng 4 năm 2018, đối với bị cáo:

NGUYỄN NGỌC T, sinh năm 1992, tại Bình Định; Nơi đăng ký thường trú: Thôn MC, xã PS, huyện TP, tỉnh Bình Định; Chỗ ở: Thôn Thôn MC, xã PS, huyện TP, tỉnh Bình Định; Nghề nghiệp: Tài xế; Trình độ học vấn: 9/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1961 và bà Lê Thị Đ, sinh năm 1967; Vợ: Trần Thị Mỹ R, sinh năm 1992, có 01 người con, sinh năm 2015; Tiền án, tiền sự: Không; Tạm giam từ ngày 08-10-2017 đến nay. (Có mặt tại phiên tòa) 

- Bị hại

1. Ông Nguyễn Công K, sinh năm: 1969.(Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp A, xã XH, huyện XL, tỉnh Đồng Nai.

2. Nguyễn Thị Kim I, sinh năm: 1968.(Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp A, xã XH, huyện XL, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.

3. Anh Nguyễn Công V, sinh năm: 1994.

Nơi cư trú: Ấp A, xã XH, huyện XL, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

4. Đỗ Thị L, sinh năm: 1958. (Vắng mặt)

Nơi cư trú: Ấp A, xã XH, huyện XL, tỉnh Đồng Nai.

- Người đại diện hợp pháp của anh Nguyễn Công V và bà Nguyễn Thị Kim Chi: Ông Nguyễn Công K, sinh năm: 1969.

Nơi cư trú: Ấp A, xã XH, huyện XL, tỉnh Đồng Nai, làm đại diện theo ủy quyền lập ngày 17-11-2017. (Vắng mặt)

- Bị đơn dân sựAnh Trần Ngọc U, sinh năm: 1974.

Nơi cư trú: Tổ 6, khu vực 1, phường B, thành phố QN, tỉnh Bình Định. (Vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

1. HTXVT.

Trụ sở tại: 167 TT, P.X, Q.Y, TP.Hồ Chí Minh.

Do anh Trương Thanh G, sinh năm: 1971. Đại diện theo ủy quyền lập ngày 18-9-2017.

Đa chỉ: Thôn A, xã HT, huyện HN, tỉnh Bình Định. (Vắng mặt)

2. Anh Trần Phúc N, sinh năm: 1995.

Nơi cư trú: Ấp A, xã ST, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

3. Anh Vòng Chi P, sinh năm: 1995.

Nơi cư trú: Ấp TH, xã BH, huyện TB, tỉnh Đồng Nai. (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Vào khoảng 04 giờ 30 phút, ngày 31-3-2017, Nguyễn Ngọc T có giấy phép lái xe ô tô hạng C, số 520175001090 do Sở giao thông vận tải tỉnh Bình Định cấp ngày 11-02-2017, có giá trị sử dụng đến ngày 11-02-2022, điều khiển xe ô tô tải mang biển số 77C-085.84 lưu thông trên Quốc lộ 1A theo hướng từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Bình Thuận trên làn đường dành cho xe cơ giới thuộc phần đường bên phải (theo hướng lưu thông của T), vận tốc khoảng 60km/h. Đến Km 1771+700m Quốc lộ 1A thuộc ấp 4, xã XH, huyện XL, tỉnh Đồng Nai, có nhiều xe ô tô nối đuôi nhau. Lúc này cách đầu xe ô tô tải do T điều khiển khoảng từ 07m - 08m phía trước là xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 do anh Nguyễn Công V điều khiển chở theo bà Nguyễn Thị Kim I và bà Đỗ Thị L, đang lưu thông cùng chiều, cùng làn đường phía trước. T vừa điều khiển xe ô tô tải vừa dùng tay phải lấy nước uống thì làm rơi 01 chiếc điện thoại di động xuống sàn cabin, gần vị trí đạp chân ga nên đã cúi xuống lấy điện thoại, thiếu chú ý quan sát phía trước, không giữ khoảng cách dẫn đến phía trước đầu xe ô tô do T điều khiển đã đụng mạnh vào đuôi xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45, đẩy về phía trước tiếp tục đụng và kẹt dính vào đuôi xe ô tô tải mang biển số 54Z-1715 do anh Trương Thanh G điều khiển lưu thông cùng chiều, cùng làn đường phía trước gây tai nạn giao thông.

Sau khi tai nạn xảy ra, xe mô tô mang biển số 60B8-478.76, anh Trần Phúc N điều khiển chở anh Vòng Chi P lưu thông theo hướng từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Bình Thuận thiếu chú ý quan sát phanh gấp, trượt ngã đụng vào góc phải đuôi xe ô tô tải mang biển số 77C-085.84 đang dừng tại hiện trường vụ tai nạn giao thông.

Hậu quả:

- Xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 bị hư hỏng, trị giá là 224.500.000 (Hai trăm hai mươi bốn triệu năm trăm nghìn) đồng.

- Xe ô tô tải mang biển số 54Z-1715 bị hư hỏng nhẹ.

- Bà Nguyễn Thị Kim I bị: Chấn thương đầu xuất huyết não trán trái, xuất huyết dưới nhện; gãy xương cánh tay phải; gãy chân trái; gãy xương đùi phải.

- Bà Đỗ Thị L bị: Chấn thương đầu; chấn thương ngực, cột sống, lưng; gãy xương cẳng chân trái; gãy xương sườn VII bên phải, gãy xương sườn V, VI, VIII, IX bên trái.

- Anh Nguyễn Công V bị đứt gân chân phải.

- Anh Trần Phúc N bị thương tích nhẹ.

- Bà Chi, bà L, anh V, anh N từ chối giám định thương tích.

Quá trình điều tra xác định:

Xe ô tô tải mang biển số 54Z-1715 sau tai nạn xảy ra dừng bên phải đường, đầu xe hướng đi Bình Thuận, đuôi xe hướng Thành phố Hồ Chí Minh. Trục bánh trước thứ nhất bên phải cách vạch sơn phân làn bên phải 0,5m, trụ c bánh trước thứ hai bên phải cách vạch sơn phân làn bên phải 0,5m, trục bánh sau thứ nhất bên phải cách vạch sơn phân làn bên phải 0,5m, trục bánh sau thứ hai bên phải cách vạch sơn phân làn bên phải 0,5m, trục bánh sau cùng bên phải cách vạch sơn phân làn bên phải 0,5m.

Xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 sau tai nạn xảy ra dừng bên phải đường, đầu xe hướng đi Bình Thuận, đuôi xe hướng Thành phố Hồ Chí Minh. Trục bánh trước bên phải cách vạch sơn phân làn bên phải 1m50 và cách trục bánh sau cùng bên phải xe ô tô tải mang biển số 54Z-1715 về hướng đi Bình Thuận 4m60. Trục bánh sau bên phải cách vạch sơn phân làn bên phải đường 01m.

Xe ô tô tải mang biển số 77C-085.84 sau tai nạn xảy ra dừng bên phải đường, đầu xe hướng đi Bình Thuận, đuôi xe hướng Thành phố Hồ Chí Minh. Trục bánh trước bên phải cách mép đường phải 1m90 và cách trục bánh sau bên phải xe ô tô mang biển số 60C-315.45 về hướng đi Thành phố Hồ Chí Minh 7m20. Trục bánh sau thứ nhất bên phải cách mép phải đường 02m, trục bánh sau cùng bên phải cách mép phải đường 02m10.

Xe mô tô mang biển số 60B8-478.76 sau tai nạn xảy ra nằm bên phải đường, ngã qua trái, đầu xe hướng mép trái đường, đuôi xe hướng mép phải đường, trục bánh trước cách mép phải đường 02m, trục bánh sau cách mép phải đường 01m40. Nối liền từ vị trí xe nằm về hướng đi Thành phố Hồ Chí Minh là vết cày không liên tục, thẳng, rõ nét dài 16m80. Đầu vết cày cách vạch sơn phân làn bên phải 20cm. Cuối vết cày tại vị trí giữa xe nằm.

Cách trục bánh trước xe ô tô tải mang biển số 77C-085.84 về hướng đi Thành phố Hồ Chí Minh 02m là vết lốp đôi, rõ nét, thẳng, liên tục rộng 20cm, dài 03m90, đầu vết lốp cách vạch tim đường 01m30, cuối vết lốp cách vạch tim đường 01m30.

Cách trục bánh trước bên phải xe ô tô mang biển số 77C-085.84 về hướng đi Bình Thuận 01m là tâm vết bụi đất, rơi vải phạm vi 01m x 01m, tâm cách mép phải đường 02m.

- Vị trí va chạm giữa các phương tiện: Phần đầu phía trước xe ô tô tải mang biển số 77C-085.84 do Nguyễn Ngọc T điều khiển đã đụng vào đuôi xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 do anh Nguyễn Công V điều khiển, làm xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 bị đẩy về phía trước dẫn đến phần đầu phía trước xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 tiếp tục đụng vào đuôi xe ô tô tải mang biển số 51Z-1715 do anh Nguyễn Thanh G điều khiển, gây tai nạn giao thông. Ngay sau khi tai nạn xảy ra phía trước đầu xe mô tô mang biển số 60B8-478.76 do anh Trần Phúc N điều khiển đụng vào góc phải đuôi xe ô tô tải mang biển số 77C.085.84 đang dừng tại hiện trường vụ tai nạn giao thông.

- Vị trí điểm đụng trên đường: Trên làn đường dành cho xe cơ giới lưu thông bên phải, tại 1771+700m QL1A thuộc ấp 4, xã XH, huyện XL, Đồng Nai, tính theo hướng đi của xe ô tô tải mang biển số 77C-085.84 do anh Nguyễn Ngọc T điều khiển là từ Thành phố Hồ Chí Minh đi Bình Thuận.

Bản cáo trạng số 14/CT-VKS-HS ngày 05-01-2018, của Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai truy tố Nguyễn Ngọc T về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.

Tại phiên tòa Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo Nguyễn Ngọc T khai nhận đã thực hiện hành vi như nội dung Cáo trạng mô tả. Hành vi của bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Do đó, Viện kiểm sát giữ nguyên quyết định truy tố đối với Nguyễn Ngọc T về tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Quá trình điều tra, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; nhân thân chưa tiền án, tiền sự; là lao động chính trong gia đình. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Khoản 1 Điều 202, Điểm b, p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T từ 06-08 tháng tù.

Ý kiến của ông Nguyễn Công K là bị hại và đại diện cho bị hại Nguyễn Thị Kim I và Nguyễn Công V: Đã nhận tiền bồi thường khắc phục hậu quả, không yêu cầu bổ sung và từ chối giám định tỷ lệ thương tật.

Ý kiến của bị hại bà Đỗ Thị L: Bà đã nhận tiền bồi thường khắc phục hậu quả, bà không yêu cầu bổ sung và từ chối giám định tỷ lệ thương tật.

Ý kiến của Đại diện bị đơn dân sự anh Trần Ngọc U: Không có ý kiến gì.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Bị cáo đã ăn năn, hoàn cảnh khó khăn, mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Xuân Lộc, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Lộc, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyển, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hạ, đại diện người bị hại; bị đơn dân sự; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa sơ thẩm, bị cáo Nguyễn Ngọc T khai nhận đã thực hiện hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, Biên bản khám nghiệm hiện trường, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Vào khoảng 04 giờ 30 phút, ngày 31-3-2017 tại Km 1771 + 700m, Quốc lộ 1A, thuộc ấp 4, xã XH, huyện XL, Đồng Nai, Nguyễn Ngọc T điều khiển xe ô tô tải mang biển số 77C-085.84 lưu thông hướng Thành phố Hồ Chí Minh đi Bình Thuận. Do vừa điều khiển xe và cúi người lấy điện thoại rơi xuống sàn xe, không giữ khoảng cách an toàn nên xe ô tô mang biển số 77C-085.84, T điều khiển đã đụng vào đuôi xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45, do anh Nguyễn Công V điều khiển chở theo bà Nguyễn Thị Kim I và bà Đỗ Thị L, đang lưu thông, cùng chiều, cùng làn đường phía trước, làm xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 bị đẩy về phía trước, tiếp tục đụng và kẹt dính vào đuôi xe ô tô tải mang biển số 54Z-1715, do anh Trương Thanh G điều khiển gây tai nạn giao thông. Hậu quả: Xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 bị hư hỏng trị giá thiệt hại là 224.500.000 đồng; Xe ô tô tải mang biển số 54Z-1715 bị hư hỏng nhẹ; Bà Nguyễn Thị Kim I, Đỗ Thị L, Nguyễn Công V, Trần Phúc N bị thương tích nhưng không yêu cầu giám định tỷ lệ thương tật.

Hành vi điều khiển xe ô tô của bị cáo T đã vi phạm vào Khoản 1 Điều 12 Luật Giao thông đường bộ là: “Người lái xe, người điều khiển xe máy chuyên dùng phải tuân thủ quy định về tốc độ xe chạy trên đường và phải giữ một khoảng cách an toàn đối với xe chạy liền trước xe của mình; ở nơi có biển báo “cự ly tối thiểu giữa hai xe” phải giữ khoảng cách không nhỏ hơn số ghi trên biển báo.” Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999, như kết luận của Kiểm sát viên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của bị cáo đã làm thiệt hại về tài sản của ông Nguyễn Công K và ảnh hưởng đến sức khỏe của anh V, bà L và bà I nên cần đưa ra xét xử và áp dụng mức hình phạt nghiêm nhằm răn đe bị cáo và để giáo dục, phòng ngừa chung.

[3] Về tình tiết định khung hình phạt: Bị cáo không có tình tiết định khung hình phạt, nên bị xét xử tại Khoản 1 Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Bị cáo tự nguyện bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; lỗi vô ý, nhân thân chưa tiền án, tiền sự; là lao động chính trong gia đình, đang nuôi con nhỏ; bị hại xin miễn truy cứu trách nhiệm hình sự. Đó là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm b, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999. Do đó, cũng xem xét cho bị cáo trong khi quyết định hình phạt.

Đi với anh Nguyễn Công V điều khiển xe ô tô tải mang biển số 60C- 315.45, chưa có giấy phép lái xe theo quy định, nhưng đó không phải nguyên nhân dẫn đến vụ tai nạn giao thông. Hành vi của anh V đã vi phạm vào Điểm b, Khoản 7, Điều 21 của Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Công an huyện Xuân Lộc đã xử lý vi phạm hành chính là hợp lý.

Đi với ông Nguyễn Công K là chủ sở hữu xe ô tô tải mang biển số 60C-315.45 đã giao cho anh Nguyễn Công V điều khiển xe ô tô không có giấy phép lái xe theo quy định là vi phạm vào Điểm đ, Khoản 7, Điều 30 Nghị định 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 của Chính phủ về quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Công an huyện Xuân Lộc đã xử lý vi phạm hành chính đối với ông K là hợp lý.

Đi với anh Trương Thanh G điều khiển xe ô tô tải mang biển số 54Z-1715, lưu thông đúng làn đường quy định nên không có lỗi trong vụ tai nạn này.

Đi với anh Trần Phúc N điều khiển xe mô tô mang biển số 60B8-478.76 thiếu chú ý quan sát nên đã đụng vào đuôi xe ô tô mang biển số 77C- 085.84 đang dừng tại hiện trường nhưng không gây thiệt hại về người và tài sản của người khác nên không xử lý.

Bà Chi, bà L, anh V, anh N từ chối giám định thương tật là phù hợp quy định của pháp luật nên không cần thiết phải quyết định trưng cầu giám định.

[5] Về dân sự:

Ông Nguyễn Công K, bà Đỗ Thị L không yêu cầu bồi thường bổ sung nên không xét.

Anh Trần Phúc N và anh Vòng Chi P không yêu cầu bồi thường nên không xét.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Ngọc T phải nộp tiền án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc T phạm tội: “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng Khoản 1 Điều 202; Điểm b, p Khoản 1 Điều 46; Khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999; Điều 99; Khoản 5 Điều 328 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội về án phí.

Xử phạt: Nguyễn Ngọc T – 6 tháng 9 ngày (Sáu tháng chín ngày) tù, thời hạn tù tính từ ngày 08-10-2017.

Trả tự do cho bị cáo T ngay sau khi tuyên án nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.

2. Về án phí: Buộc Nguyễn Ngọc T nộp 200.000 (Hai trăm nghìn) đồng tiền án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo đối với Bản án: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án; bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bị đơn dân sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận bản án. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

290
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HS-ST ngày 16/04/2018 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:31/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Lộc - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về