Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 27/04/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN H, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 27 tháng 4 năm 2018, tại trụ sở, Tòa án nhân dân huyện H xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 04/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2018 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 18/2018/QĐST-HNGĐ ngày 19 tháng 3 năm 2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Diễm T - Sinh năm 1994 - Địa chỉ: Ấp 3, xã MQT, huyện H, tỉnh Long An (Vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thành T1 - Sinh năm 1986 - Địa chỉ: Ấp 3, xã MQT,huyện H, tỉnh Long An (Vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 13 tháng 11 năm 2017, các văn bản tiếp theo, nguyên đơn bà Trần Diễm T trình bày và yêu cầu:

Bà và ông Nguyễn Thành T1 chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã MQT ngày 17-7-2013. Chung sống đến tháng 9 năm 2016 xảy ra mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, thường gây gổ nhau. Bà và ông T1 ly thân từ tháng 7 năm 2017 đến nay.

Về hôn nhân: Bà yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Thành T1.

Về nuôi con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Thành N, sinh ngày 26/02/2014, đang sống chung với bà. Bà yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản chung và nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngày 19/3/2018, bà Trần Diễm T có đơn xin xét xử vắng mặt;

Bị đơn là ông Nguyễn Thành T1 được niêm yết hợp lệ các thủ tục tố tụng nhưng không có ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ông, không có mặt để tham gia hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do, nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà Trần Diễm T khởi kiện yêu cầu ly hôn ông Nguyễn Thành T1, Tòa án nhân dân huyện H tỉnh Long An thụ lý giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Bà T có đơn xin xét xử vắng mặt, Hội đồng xét xử xét đơn khởi kiện của bà T theo quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự 2015;

[3] Trong thời gian Tòa án thụ lý vụ án, bị đơn ông Nguyễn Thành T1 được niêm yết hợp lệ các thủ tục tố tụng của Tòa án, nhưng không có ý kiến, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của ông, không có mặt để tham gia hòa giải và vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do. Hội đồng xét xử xét đơn khởi kiện của bà T theo quy định tại khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự 2015, ông T1 không được quyền khiếu nại về việc cung cấp chứng cứ và tham gia phiên tòa vì ông không có mặt theo thông báo và giấy triệu tập của Tòa án, không thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông theo quy định pháp luật.

[4] Bà T và ông T1 chung sống có đăng ký kết hôn ngày 17-7-2013 tại Ủy ban nhân dân xã MQT, huyện H, tỉnh Long An. Quan hệ hôn nhân giữa bà T và ông T1 là hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật hôn nhân và gia đình.

[5] Tại phiên tòa, nguyên đơn không có đơn rút yêu cầu khởi kiện, không có căn cứ thể hiện việc các đương sự thỏa thuận được với nhau việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án.

[6] Xét về hôn nhân: Bà T và ông T1 xảy ra mâu thuẫn và ly thân từ tháng tháng 7 năm 2017 đến nay, hiện vẫn sống ly thân, tự mỗi người lo cho bản thân, không quan tâm chăm sóc nhau. Mâu thuẫn giữa bà T và ông T1 đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc bà T yêu cầu ly hôn là phù hợp theo quy định tại điều 56 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên chấp nhận. Ông T1 không có ý kiến nên không có căn cứ xem xét.

[7] Về nuôi con chung:

Bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Thành N, sinh ngày 26/02/2014, đang sống chung với bà T. Bà T không đưa ra được tài liệu, chứng cứ chứng minh yêu cầu của bà là có căn cứ.

Tuy nhiên, xét con chung còn nhỏ, đang sống chung với bà T từ trước đến nay, việc thay đổi môi trường sống, học tập sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc con chung và sự phát triển bình thường về tâm sinh lý của con chung.

Do đó, yêu cầu trực tiếp nuôi con chung của bà T phù hợp theo quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, nên chấp nhận. Ngược lại, ông T1 không có ý kiến về yêu cầu nuôi con của bà T, nên không có căn cứ xem xét.

[8] Bà T không yêu cầu ông T1 cấp dưỡng nuôi con là tự nguyện, phù hợp quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân gia đình năm 2014 nên ghi nhận.

[9] Ông T1 được quyền tới lui, thăm nom và chăm sóc con chung; Khi cần thiết, vì lợi ích của con chung, bà T và ông T1 được quyền yêu cầu thay đổi trình trạng nuôi con chung và việc cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp theo quy định tại các Điều 83, 84, 107 và 110 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[10] Về chia tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày không có, ông T1 không có ý kiến, nên không đề cập giải quyết; Nếu xảy ra tranh chấp, giải quyết bằng vụ án khác là phù hợp.

[11] Về án phí dân sự sơ thẩm, căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án, xét thấy: Bà T là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải chịu 300.000 đồng tiền án phí ly hôn, được khấu trừ 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp, bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm; Ông T1 không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227, Điều 147 và Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015; các Điều 56, 81, 82, 83, 84, 107 và 110 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Bà Trần Diễm T được ly hôn với ông Nguyễn Thành T1.

2. Về nuôi con chung:

Bà Trần Diễm T được trực tiếp nuôi con chung tên tên Nguyễn Thành N, sinh ngày 26/02/2014, đang sống chung với bà T; Ông Nguyễn Thành T1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

 Ông T1 được quyền tới lui, thăm nom và chăm sóc con chung. Khi cần thiết, vì lợi ích của con chung, bà T và ông T1 được quyền yêu cầu thay đổi trình trạng nuôi con chung và việc cấp dưỡng nuôi con chung theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

 3. Về chia tài sản chung và nợ chung: Bà T trình bày không có, ông T1không có ý  kiến, không đề cập giải quyết;

4. Về án phí: Bà Trần Diễm T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp (Biên lai thu số 0008169 ngày 04-01-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện H), bà T đã nộp đủ án phí.

5. Các đương sự vắng mặt, được quyền kháng cáo bản án theo thủ tục phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

238
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 27/04/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:31/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Vĩnh Hưng - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về