Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 02/03/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀM YÊN, TỈNH TUYÊN QUANG

BẢN ÁN 31/2018/HNGĐ-ST NGÀY 02/03/2018 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 02/3/2018 tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 197/2017/TLST-HNGĐ, ngày 10 tháng 11 năm 2017 về việc "Tranh chấp hôn nhân và gia đình" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 06/2018/QĐST-HNGĐ ngày 18/ 01/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Tướng Thị X, sinh năm 1972;

Địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện H, tỉnh Tuyên Quang. (Vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt).

- Bị đơn: Ông Triệu Văn C, sinh năm 1972.

Địa chỉ: Thôn T, xã M, huyện H, tỉnh Tuyên Quang.

(Đã được triệu tập hợp lệ 2 lần nhưng vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 20/8/2017 và biên bản lấy lời khai ngày 10/11/2017 nguyên đơn bà Tướng Thị X trình bày:

Bà và ông Triệu Văn C chung sống với nhau từ tháng 01/1991 trên cơ sở tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn, được gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Được 4 năm thì vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do ông C thường xuyên rượu chè, cờ bạc và đánh đập bà, thực tế vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2014 đến nay không còn quan tâm gì đến nhau nữa. Bà X xác định mâu thuẫn vợ chồng đã rất trầm trọng nên không thể chung sống được nữa bà đề nghị Tòa án giải quyết tuyên bố bà và ông C không phải là vợ chồng.

Về con chung, bà Tướng Thị X và ông Triệu Văn C có ba con chung là:

Triệu Thị Chuyền, sinh ngày 22/11/1993

Triệu Thị Thu, sinh ngày 09/10/1994

Triệu Văn Mạnh, sinh ngày 13/7/1999

Hiện tại cả 3 con đều đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động nên bà X không yêu cầu giải quyết về con chung.

Về tài sản chung: Vợ chồng có một số tài sản chung nhưng tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về vay nợ chung: Vợ chồng không vay nợ ai nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 10/01/2018 bị đơn ông Triệu Văn C trình bày:

Ông và bà Tướng Thị X chung sống với nhau từ năm 1991 trên cơ sở tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn, được gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán của địa phương, thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Sau khi ông C đi làm ăn ở Trung Quốc về   thì vợ chồng nảy sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bà X bỏ đi theo người đàn ông khác nên không về nhà nữa

Về con chung: Quá trình chung sống ông và bà X có ba con chung như bà X trình bày, hiện nay các con đều đã trưởng thành và sống tự lập nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Vợ chồng có một số tài sản chung nhưng tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về vay nợ chung: Vợ chồng không vay nợ ai nên không đề nghị Tòa án giải quyết.

Tại biên bản xác minh ngày 10/01/2018 Ủy ban nhân dân xã M, huyện H, tnh Tuyên Quang cung cấp như sau:

Bà Tướng Thị X và ông Triệu Văn C chung sống với nhau từ năm 1991 đến nay, nhưng không có đăng ký kết hôn, cuộc sống của ông C và bà X không hòa hợp, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, về con chung của ông C, bà X hiện nay đều trên 18 tuổi, tại địa phương ông C và bà X không vay nợ cá nhân, tổ chức nào.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án đều đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của nguyên đơn, được thực hiện tốt, bị đơn chưa chấp hành tốt các quy định của pháp luật.

Về việc giải quyết vụ án đại diện Viện kiểm sát đề nghị HĐXX áp dụng: các Điều 14, 53 Luật Hôn nhân và gia đình; Các Điều 28, 147, 227, 228, 235, 238, Điều 266, 267, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Tướng Thị X, đề nghị không công nhận quan hệ vợ chồng giữa  bà Tướng Thị X và ông Triệu Văn C.

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến của các đương sự, ý kiến của Kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về quan hệ hôn nhân:

Bà Tướng Thị X và ông Triệu Văn C chung sống với nhau như vợ chồng  từ năm 1991, việc chung sống là do hai bên tự nguyện, được gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quan của địa phương, nhưng không có có đăng ký kết hôn. Như vậy, quan hệ hôn nhân của bà X, ông C là không hợp pháp.

Thời gian chung sống như vợ chồng giữa ông C và bà X từ năm 1991, quá trình chung sống được 4 năm thì nảy sinh mâu thuẫn, ông C thường xuyên uống rượu rồi đánh bà X, từ năm 2014 đến nay bà X và ông C không còn chung sống với nhau nữa. Việc chung sống như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn của ông C, bà X là vi phạm pháp luật hôn nhân và gia đình, trong quá trình chung sống bà X và ông C cũng không thực hiện đăng ký kết hôn bổ sung, như vậy mối quan hệ của bà X và ông C không phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hàm Yên cũng đề nghị Hội đồng xét xử không công nhận quan hệ vợ chồng giữa ông C và bà X, xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp với quy định của pháp luật nên cần chấp nhận.

Về con chung: Trong quá trình chung sống bà X và ông C có ba con chung là Triệu Thị C, sinh ngày 22/11/1993; Triệu Thị T, sinh ngày 09/10/1994 và Triệu Văn M, sinh ngày 13/7/1999. Hiện tại cả 3 con đều đã đủ 18 tuổi, có khả năng lao động, bà X và ông C đều không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung: Ông C, bà X có một số tài sản chung nhưng tự thỏa thuận không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về vay nợ chung: Ông C, bà X không vay nợ ai, không đề nghị Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về án phí: Bà Tướng Thị X phải chịu toàn bộ án phí sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 14, Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1, khoản 7  Điều 28, Điều 147, Điều 206, 227, 228, 238, khoản 1 Điều 235, Điều 266, 267, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Xử: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Tướng Thị X Tuyên bố bà Tướng Thị X và ông Triệu Văn C không phải vợ chồng.

Về án phí: Bà Tướng Thị X phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tại biên lai số 0003824 ngày 10/11/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Hàm Yên, tỉnh Tuyên Quang. Bà X đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm. Ông C không  phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Bà Tướng Thị X và ông Triệu Văn C  có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án, hoặc kể từ ngày niêm yết bản án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

254
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/HNGĐ-ST ngày 02/03/2018 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:31/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hàm Yên - Tuyên Quang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/03/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về