Bản án 31/2018/DS-ST ngày 19/04/2018 về kiện đòi tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH Đ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 31/2018/DS-ST NGÀY 19/04/2018 VỀ KIỆN ĐÒI TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 04 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tr công khai xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số: 268/2017/TLST-DS ngày 19 tháng 12 năm 2017. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 20/2018/QĐXX- DS ngày 14/03/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 20/QĐST-DS ngày 02 tháng 04 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Trần Thị L, sinh năm 1970; (Có mặt) Địa chỉ: Ấp Phú L, xã Phú Th, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tr.

Bị đơn:

1/ Trần Thị Thu Tr, sinh năm 1975; (Có mặt)

2/ Phạm Văn C, sinh năm 1972; (Vắng mặt)

Địa chỉ: Ấp Phú L, xã Phú Th, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tr.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 19/12/2017 cũng như tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trần Thị L trình bày nội dung việc kiện và yêu cầu Tòa án giải quyết như sau:

Chị Trần Thị Thu Tr và Trần Thị Mỹ H là hụi viên do chị làm chủ hụi. Chị H và chị Tr là chị em ruột.

Năm 2014 chị làm chủ hụi nên chị Thu Tr và chị Mỹ H cùng tham gia chơi chung hai dây hụi này. Do chơi chung hụi nên chị H không đi khui hụi, đóng hụi mà nhờ chị Tr thực hiện thay. Cụ thể quá trình tham gia chơi hụi như sau:

1/ Hụi mở ngày 01/11/2014 âl, hụi 500.000 đồng, tháng khui một lần, chị H chơi một phần, từ ngày mở hụi lần đầu cho đến lần khui thứ 12 ( tức ngày 01/11/2015 al) thì chị Tr bỏ hụi và hốt được số tiền 16.750.000 đồng, nhưng khi hốt được hụi thì chị Tr không giao số tiền hụi này cho chị H và đến ngày mãn hụi 01/08/2017 al thì chị Trần Thị Mỹ H yêu cầu chị phải giao số tiền hốt hụi ( hụi chót) cho chị thì phát hiện là chị Tr đã bỏ hụi và lấy tiền hụi phần của chị H.

2/ Hụi mở ngày 20/3/2015 al, hụi 500.000 đồng, hụi có 31 thành viên, tháng khui một lần, ngày này chị mở hai dây, chị H tham gia 2 dây. Cụ thể:

- Dây 1: chị Mỹ H tham gia chơi hai phần, chị Tr đóng hụi thay cho chị H nên đến lần mở hụi thứ 12 ( tháng 2/2016 al) thì  chị Tr bỏ hụi thay cho chị H và hốt được số tiền 14.750.000 đồng x 2 phần là 29.500.000 đồng nhưng chị Tr không giao tiền cho chị H. Ngày mãn hụi ngày 01/8/2017 âl thì chị H mới yêu cầu chị giao tiền hốt hụi chót thì mới biết số tiền 29.500.000 đồng do chị Tr nhận nhưng không giao lại cho chị H.

Khi các phần hụi mà chị Mỹ H tham gia mãn nhưng chị không giao tiền cho chị H nên chị H đã khởi kiện chị tại Tòa án. Tại Quyết định số 101/2017/QĐST- DS ngày 11/12/2017 thì chị đồng ý trả cho chị H số tiền mà chị H đã hốt hụi chót là 38.750.000 đồng ( do chị đã trừ số tiền hụi mà chị H không đóng 7 tháng). Do đó, chị L yêu cầu vợ chồng chị Tr và anh C cùng trả nợ với tổng số tiền nợ hụi là 46.250.000 đồng, không yêu cầu trả lãi.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 08/01/2018, biên bản hòa giải ngày 08/01/2018 và tại phiên tòa thì chị Trần Thị Thu Tr thừa nhận lời trình bày của chị L là đúng, đồng ý trả số nợ 46.250.000 đồng nhưng yêu cầu trả dần. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Đ phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự, kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và ý kiến về việc giải quyết vụ án:

Đối với Thẩm phán có tuân thủ đúng các quy định Bộ luật Tố tụng dân sự. Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án đúng quy định. Hội đồng xét xử đúng thành phần, thực hiện đúng các nguyên tắc do pháp luật quy định. Nguyên đơn, bị đơn chị Tr đều chấp hành tốt quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định. Anh C vắng mặt các lần hòa giải, xét xử dù đã được tống đạt hợp lệ nên anh C chưa thực hiện quyền, nghĩa vụ của đương sự được quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật tố tụng dân sự.
 
Về nội dung vụ án:

Tại phiên tòa chị Thu Tr thừa nhận còn nợ số tiền 46.250.000 đồng của chị L. Đây là tình tiết mà nguyên đơn không cần phải chứng minh.

Quá trình tham gia chơi hụi thì chị Tr đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền cho chị L nên chị L yêu cầu chị Tr phải trả số tiền 46.250.000 đồng là đúng quy định.

Tại phiên tòa, chị Tr khai nhận dùng số tiền này để phục vụ cho việc sinh hoạt chi tiêu cho cả gia đình. Theo quy định tại Điều 27 của Luật Hôn nhân và gia đình thì trách nhiệm trả nợ là của anh C và chị Tr nên buộc anh C phải có nghĩa vụ cùng chị Tr trả nợ là đúng quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu toàn bộ chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Anh Phạm Văn C đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để xét xử nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vụ án là đúng quy định.

[2] Tại phiên tòa chị Trần Thị Thu Tr thừa nhận những lời trình bày của chị L là đúng, đồng ý trả cho chị L tổng số tiền đã hốt hụi phần của chị H là 46.250.000 đồng. Sự thừa nhận nợ của bị đơn phù hợp với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Căn cứ khoản 2 Điều 92 của Bộ luật tố tụng dân sự thì nguyên đơn không cần phải chứng minh.

Từ sự thừa nhận nợ của bị đơn, xét thấy: yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

[3] Căn cứ đơn xin xác nhận ngày 17/01/2018 được Ủy ban nhân dân xã Phú Th, huyện Bình Đ, tỉnh Bến Tr xác nhận: “ Ông Phạm Văn C và bà Trần Thị Thu Tr đăng ký kết hôn ngày 12/7/2004 tại UBND xã Phú Th”. Như vậy, có cơ sở để xác định chị Trần Thị Thu Tr và anh Phạm Văn C là vợ chồng hợp pháp.

[4] Tại phiên tòa, chị Trần Thị Thu Tr khai nhận mục đích chị lấy tiền hốt hụi phần của chị H nhằm phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của gia đình. Căn cứ Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình buộc anh Phạm Văn C phải có nghĩa vụ liên đới cùng chị Trần Thị Thu Tr trả nợ cho chị L là phù hợp.

[9] Về án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Do yêu cầu khởi kiện của chị L được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ. Căn cứ khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 Nghị quyết quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án chị Tr và anh C phải liên đới chịu án phí: 46.250.000 đồng x 5% = 2.312.500 đồng. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 227, 92 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 166 của Bộ luật dân  sự; Điều  27 Luật hôn nhân và gia ddình; Điều 26 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án về án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1/ Buộc vợ chồng chị Trần Thị Thu Tr và anh Phạm Văn C phải có nghĩa vụ liên đới trả cho chị Trần Thị L tổng số tiền 46.250.000 đồng ( bốn sáu triệu hai trăm năm chục ngàn đồng).

Kể từ khi bản án có hiệu lực pháp luật ( đối với trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự.

2. Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch:

- Chị Trần Thị Thu Tr và anh Phạm Văn C phải liên đới chịu 2.312.500 đồng (hai triệu ba trăm mười hai ngàn năm trăm đồng).

- Hòan trả cho chị Trần Thị L tiền tạm ứng án phí đã nộp 1.156.000 đồng ( một triệu một trăm năm mươi sáu ngàn đồng) theo biên lai thu tiền số 0006295 ngày 19/12/2017 tại Cơ quan thi hành án dân sự huyện Bình Đ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Các đương sự có mặt tại phiên tòa, có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Phạm Văn C vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

441
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2018/DS-ST ngày 19/04/2018 về kiện đòi tài sản

Số hiệu:31/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 19/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về