Bản án 31/2017/HSST ngày 27/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KIẾN XƯƠNG, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 31/2017/HSST NGÀY 27/06/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 6 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình xét xử vụ án hình sự thụ lý số 28/2017/HSST - ngày 25/5/2017 đối với:

Bị cáo Trần Văn K, sinh năm 1986 tại xã V, huyện K, tỉnh T; nơi cư trú: Thôn T, xã V, huyện K, tỉnh T; số chứng minh nhân dân 151548xxx; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Trình độ văn hoá: 9/12; dân tộc kinh; Con ông Trần Xuân K và bà Hoàng Thị T; có vợ là Nguyễn Thị H (đã ly hôn); có 01 con sinh năm 2007; Tiền án: Bản án số 02/2016/HSST ngày 14/01/2016 của Tòa án nhân dân huyện Kiến Xương tỉnh

Thái Bình xử phạt Khang 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự, đã chấp hành xong hình phạt; Tiền sự: Không; nhân thân: Từ tháng 3/2005 đến tháng 9/2006 tham gia nghĩa vụ quân sự, được xuất ngũ về địa phương; từ 28/8/2012 đến 28/7/2014 bị đưa đi cơ sở giáo dục, đã chấp hành xong; Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 14/4/2017 đến nay. Bị cáo được trích xuất có mặt tại phiên toà.

- Người bị hại: Anh Nguyễn Thanh H - sinh năm 1974 (vắng mặt).

Trú tại: Thôn L, xã Q, huyện K, tỉnh T.

- Người làm chứng

+ Anh Vũ Văn S - sinh năm 1980 (vắng mặt)

Trú tại: Số nhà 39B, đường H, phường L, thành phố T, tỉnh T.

+ Ông Trần Xuân K - sinh năm 1966 (có mt) Trú tại: Thôn T, xã V, huyện K, tỉnh T.

+ Cháu Trần Mạnh Đ- sinh năm 2005 (vắng mặt) 

Người đại diện hợp pháp của cháu Đ là ông Trần Văn T- bố đẻ cháu Đạt (vắng mặt)

Trú tại: Thôn L, xã Q, huyện K, Tỉnh T.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/4/2017, anh Nguyễn Thanh H để chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY, biển kiểm soát 17H3-8194 ở sân lối đi xuống bếp phía bên trái nhà, sau đó xuống bếp nấu cơm. Lúc này Trần Văn K đi xe đạp mini màu xanh của bố đẻ là ông Trần Xuân K đến nhà anh H chơi, đến nơi K dựng xe đạp ngoài cổng nhà anh H rồi đi bộ vào trong sân. K quan sát thấy chiếc xe mô tô trên chìa khóa vẫn cắm ở ổ khóa điện, không thấy có người ở nhà nên K nảy sinh ý định trộm cắp chiếc xe mô tô trên. Kđi đến chỗ chiếc xe mô tô, dắt xe ra ngoài cổng và nổ máy điều khiển xe đi về hướng xã T. Ngay lúc này anh H nghe tiếng xe máy nổ chạy lên thì phát hiện bị mất xe, anh H chạy ra đến cổng thì gặp cháu Trần Mạnh Đ trú cùng thôn được cháu Đ cho biết xe máy của anh H có một thanh niên điều khiển đi về phía xã T, anh H lấy xe máy đuổi theo và phát hiện người lấy xe của mình là Trần Văn K ở xã V. Đuổi theo được khoảng 01 km thì anh H không xác định được K rẽ về hướng nào nên quay về.

Sau khi lấy được xe, K điều khiển xe lên thành phố T, khi đến đoạn đường Hai Bà Trưng thì xe hết xăng nên K dắt xe vào nhà người quen là anh Vũ Văn S để gửi. Do anh S không biết nguồn gốc chiếc xe mô tô mà K gửi nên đồng ý và bảo K dắt xe vào trong sân để gửi. Gửi xe xong, K đi bộ ra đường rồi thuê xe ôm trở về nhà.

Đến ngày 13/4/2017, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Kiến Xương triệu tập K lên làm việc. K đã khai nhận toàn bộ hành vi trộm cắp của mình như đã nêu trên.

Theo bản kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐĐG ngày 14/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình kết luận: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY biển kiểm soát 17H3-8194, số khung TT-082094, số mày FMH-082094, đã qua sử dụng có giá trị 2.300.000 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 29/KSĐT - ngày 25/5/2017, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình đã truy tố K về tội "Trộm cắp tài sản" theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương vẫn giữ nguyên quyết định đã truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46;, Điểm g khoản 1 Điều 48 Điều 33 Bộ luật hình sự tuyên bố bị cáo K phạm tội “Trộm cắp tài sản”; xử phạt bị cáo Khang mức án từ 01(một) năm đến 01(một) năm 03(ba) tháng tù.

- Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi , quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Kiến Xương, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Kiến Xương, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hanh vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn K tại phiên tòa như trong bản Cáo trạng Viện kiểm sát đã truy tố và phù hợp với các tài liệu khác có trong hồ sơ:

- Đơn trình báo và biên bản ghi lời khai của người bị hại là: Anh Nguyễn Thanh H.

- Biên bản ghi lời khai của người làm chứng là ông Trần Xuân K sinh năm 1966, trú tại: thôn T xã V huyện K tỉnh T; anh Vũ Văn S sinh năm 1980, trú tại số nhà 39B đường H phường L thành phố T tỉnh T và cháu Trần Mạnh Đ sinh năm 2005, trú tại thôn L xã Q huyện K tỉnh T.

- Bản kết luận định giá tài sản số 03/KL-HĐĐG ngày 14/4/2017 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình .

Xét thấy các chứng cứ nêu trên được Cơ quan điều tra thu thập đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định là hợp pháp, khách quan. Các chứng cứ này phù hợp với nhau và phù hợp với lời khai nhận tội của bị cáo Trần Văn K về địa điểm, thời gian, hành vi phạm tội của bị cáo.

[3] Từ những căn cứ nêu trên đủ để xác định: Khoảng 11 giờ 30 phút ngày 11/4/2017, Trần Văn K đã có hành vi lén lút vào sân nhà anh Nguyễn Thanh H ở thôn L xã Q huyện K tỉnh T trộm cắp chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY biển kiểm soát 17H3-8194 trị giá 2.300.000 đồng.

Hội đồng xét xử kết luận: Bị cáo Trần Văn K phạm tội "Trộm cắp tài sản" như Viện kiểm sát đã truy tố. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự.

[4] Xét tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện thì thấy: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản công dân, gây mất trật tự an ninh tại địa phương. Bị cáo là chủ thể đủ năng lực trách nhiệm hình sự, bị cáo đã 01 lần bị xử phạt tù về tội trộm cắp tài nhưng bị cáo vẫn không chịu cải tạo tu dưỡng rèn luyện bản thân mà vẫn tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội, thể hiện ý thức coi thường pháp luật. Vì vậy cần phải xử phạt nghiêm khắc là phạt tù với mức án tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo mới có tác dụng cải tạo, giáo dục đối với bị cáo và răn đe, phòng ngừa tội phạm nói chung. Tuy nhiên do bị cáo không có nghề nghiệp ổn định, thu nhập thấp nên không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Xét về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo thì thấy: Bị cáo bị áp dụng 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự theo quy định tại g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự: Tái phạm. Bị cáo được hưởng 02 tình tiết giảm nhẹ là phạm tội gây thiệt hại không lớn và người phạm tội thành khẩn khai báo quy định tại điểm g, p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự. Bị cáo còn được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 điều 46 của Bộ luật hình sự do đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.

[6]Về trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng: Xét thấy Cơ quan điều tra Công an huyện Kiến Xương đã trả lại cho anh Nguyễn Thanh H chiếc xe mô tô nhãn hiệu MAJESTY biển kiểm soát 17H3-8194, anh H không yêu cầu bị cáo K phải bồi thường gì thêm, nên không đặt ra giải quyết về trách nhiệm bồi thường của bị cáo cho anh Nguyễn Thanh H. Cơ quan điều tra cũng đã trả lại ông Trần Xuân K chiếc xe đạp mini màu xanh là đúng quy định của pháp luật.

[7]Về án phí: Bị cáo Trần Văn K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quyđịnh của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Trần Văn K phạm tội "Trộm cắp tài sản”

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 của Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Trần Văn K 01(một) năm tù.Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam (14/4/2017).

2. Án phí: Áp dụng Điều 98, 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Trần Văn K phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Quyền kháng cáo: bị cáo Trần Văn K có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm 27/6/2017; người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2017/HSST ngày 27/06/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:31/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kiến Xương - Thái Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/06/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về