Bản án 31/2017/HSST ngày 26/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SỐP CỘP, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 31/2017/HSST NGÀY 26/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 26 tháng 7 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La, xét xử công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 33/2017/TLST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2017, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 74/2017/QĐXXST-HS, ngày 12/7/2017 đối với bị cáo:

Họ và tên: Lường Văn T – Sinh năm 1984, tại huyện Sốp Cộp, Sơn La;

Nơi cư trú: Bản C, xã P B, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp:Trồng trọt; Trình độ văn hoá: 6/12; Dân tộc: Thái; Tôn giáo: không; con ông Lường Văn T và bà Tòng Thị I; bị cáo có vợ là Lường Thị N và 02 con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 24/3/2017 cho đến nay có mặt tại phiên toà.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 23 giờ 36 phút, ngày 24/3/2017, tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phối hợp với ban công an xã P B, huyện Sốp Cộp làm nhiệm vụ tại khu vực bản C, xã P B, huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La phát hiện bắt quả tang Lường Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Vật chứng thu giữ 01 túi nilon màu xanh bên trong có 40 viên nén T khai là ma túy tổng hợp, 01 tẩu tự chế làm bằng ống nhựa dùng để sử dụng ma túy. T đã bị bắt giữ dẫn giải đến Công an huyện Sốp Cộp tiếp tục điều tra làm rõ.

Ngày 25/3/2017 tại Công an tỉnh Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong cân tịnh, lấy mẫu giám định. Kết quả cân tịnh 40 viên nén tổng hợp thu giữ của T có trọng lượng 3,84 gam, trích lấy 0,58 gam ký hiệu T1 làm mẫu giám định. Vật chứng còn lại 3,26 gam ký hiệu T2 lưu kho vật chứng Công an huyện Sốp Cộp.

Kết luận giám định số: 390/KLMT ngày 30/3/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là chất ma túy, loại chất Methamphetamine” Trọng lượng chất ma túy thu giữ là 3,84 gam loại chất Methamphetamine.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Lường Văn T khai nhận: Sáng ngày 22/3 2017 T một mình đi bộ từ nhà ở bản C, xã P B đến bản H L, xã Nậm Lạnh huyện Sốp Cộp, tỉnh Sơn La với mục đích để tìm mua ma túy về sử dụng. Khi đi đến cuối bản H L, xã Nậm Lạnh, T gặp một người đàn ông dân tộc Mông không quen biết hỏi mua được 50 viên ma túy tổng hợp với giá 2.000.000Đ (Hai triệu đồng ). Mua được ma túy T mang về nhà cất dấu và sử dụng hết 09 viên ma túy. Đến khoảng 23 giờ 20 phút, ngày 23/3/2017 T mang gói ma túy ra lấy 01 viên sử dụng thì T bị tổ công tác Công an huyện Sốp Cộp phối hợp với công an xã P B làm nhiệm vụ phát hiện bắt quả tang và thu giữ toàn bộ vật chứng nêu trên.

Cáo trạng số 24/KSĐT - MT ngày 23 tháng 6 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp đã truy tố ra trước Tòa án nhân dân huyện Sốp Cộp để xét xử bị cáo Lường Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu, phù hợp với các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án.

Kiểm sát viên thực hành quyền công tố tại phiên toà sau khi trình bày lời luận tội, vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội: Tàng trữ trái phép chất ma tuý; Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 đề nghị tuyên xử phạt bị cáo: Lường Văn T từ 18 đến 24 tháng tù; Đồng thời đề nghị miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo, xử lý vật chứng theo quy định của pháp luật.

Bị cáo không có ý kiến tranh luận với bản luận tội của đại diện Viện kiểm sát, bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng mức án thấp nhất để sớm trở về với cộng đồng trở thành công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Sốp Cộp, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo xuất trình tài liệu, chứng cứ phù hợp với quy định của pháp luật; Bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã được thực hiện đều hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Lường Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung bản Cáo trạng đã nêu. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Bị cáo đã trực tiếp tàng trữ 3,84 gam loại Methamphetamine với mục đích để sử dụng, hành vi tàng trữ chất ma túy của bị cáo đã phạm vào tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm được quy định tại Điều 194 của Bộ luật hình sự. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn; do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Sốp Cộp truy tố bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự có khung hình phạt từ hai năm đến bảy năm tù là có căn cứ đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Theo quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015 tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” có khung hình phạt tù từ 01 đến 05 năm tù. Đến nay Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành nhưng theo quy định tại khoản 3 Điều 7 thì những quy định có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành. Trong vụ án này số lượng ma túy bị cáo tàng trữ là không lớn, ngoài mục đích để sử dụng không còn mục đích nào khác do đó để đảm bảo quyền lợi của bị cáo và tính nhân đạo của pháp luật đối với người có hành vi phạm tội, Hội đồng xét xử thấy cần áp dụng khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015 khi lượng hình phạt.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội thuộc trường hợp nghiêm trọng, trực tiêp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương. Số lượng ma túy bị cáo tàng trữ tuy không lớn, nhưng nếu không được ngăn chặn kịp thời chất độc hại này sẽ được đưa vào cơ thể con người làm suy thoái giống loài, nếu để lây lan, trôi nổi trong xã hội làm cho tệ nạn ma túy tại địa phương ngày càng phức tạp. Do đó bị cáo cần phải bị trừng trị thích đáng nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải dó đó bị cáo sẽ được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 BLHS năm 1999.

[5] Xét về nhân thân của bị cáo trước khi xét xử bị cáo không có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải. Tuy nhiên để trừng trị đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội, cũng như công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy, cần cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội trong một thời gian nhất định mới đảm bảo cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội.

[6] Đối với người đã trực tiếp bán chất ma túy cho bị cáo, hành vi mua bán đó là hành vi nguy hiểm cho xã hội cần phải bị xử lý, nhưng quá trình điều tra không xác định được đối tượng nên không có căn cứ để xử lý ở vụ án này, đề nghị cơ quan điều tra tiếp tục điều tra làm rõ và xử lý ở vụ án khác

[7] Vật chứng thu giữ của vụ án: Đối với 3,26 gam Methamphetamin ký hiệu T2 là vật Nhà nước cấm lưu hành, nên cần tịch thu để tiêu huỷ, đối với 01 tẩu tự chế bằng chai nhựa là vật không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu để tiêu hủy..

[8] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo phạm tội tàng trữ trái phép chất ma túy lẽ ra ngoài hình phạt tù, bị cáo còn phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự; nhưng xét thấy bị cáo là người nghiện ma túy, tài sản không có gì nên không áp dụng hình pháp bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo: Lường Văn T phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Quốc hội khoản 3 Điều 7, điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015; Xử phạt bị cáo: Lường Văn T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 24/3/2017. Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

3. Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 41 BLHS, điểm a, đ khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu để tiêu huỷ 3,26 gam Methamphetamin ký hiệu T2, 01 tẩu tự chế bằng ống nhựa. Theo biên bản giao, nhận vật chứng lập ngày 28/6/2017 giữa Chi cục Thi hành án dân sự huyện Sốp và Công an huyện Sốp Cộp.

Áp dụng khoản 1 Điều 99 BLTTHS; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016, buộc bị cáo Lường Văn T phải chịu án phí hình sự sơ thẩm là 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng)

Báo cho bị cáo biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án là ngày 26/7/2017.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2017/HSST ngày 26/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:31/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sốp Cộp - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về