Bản án 31/2017/HSST ngày 09/10/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KRÔNG NÔ, TỈNH ĐĂK NÔNG

BẢN ÁN 31/2017/HSST NGÀY 09/10/2017 VỀ TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH ĐKPTGTĐB

Ngày 09 tháng 10 năm 2017, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đăk Nông, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 35/2017/HSST, ngày 13 tháng 9 năm 2017, đối với:

1. Bị cáo: Đặng Xuân V, sinh ngày 26/11/2000, tại tỉnh Đăk Nông; nơi ĐKNKTT và chỗ ở hiện nay: thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông; trình độ học vấn: 7/12; nghề nghiệp: làm nông; con ông Đặng Văn H và con bà Đặng thị I; tiền sự: 01 tiền sự: Ngày 07/3/2017 bị Ủy ban nhân dân xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi đánh nhau; bị cấm đi khỏi nơi cư trú theo lệnh số 18 ngày 06/7/2017 của cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện K - Có mặt tại phiên tòa.

Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Võ Cao L – Công ty Luật B, thuộc đoàn luật sư tỉnh Đăk Nông – Có mặt.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo: Ông Đặng Văn H; sinh năm 1971; địa chỉ: thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông – Có mặt.

2. Người bị hại: Ông Đặng Văn T (đã chết).

3. Người đại diện hợp pháp của người bị hại:

- Bà Chương Nhị A, sinh năm 1963 – Có mặt;

- Anh Đặng Văn C1; sinh năm 1987 – Vắng mặt;

- Chị Đặng Thị E – Vắng mặt;

- Chị Đặng Thị C2 – Vắng mặt;

- Anh Đặng Văn G1 – Vắng mặt;

- Anh Đặng Văn O – Vắng mặt;

- Chị Đặng Thị G2 – Vắng mặt;

- Chị Đặng Thị F – Vắng mặt;

Cùng địa chỉ: địa chỉ: thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khong 18 giờ 30 phút ngày 06/5/2017, sau khi nhậu cùng bạn tại trung tâm xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông, Đặng Xuân V điều khiển xe mô tô BKS 48C1-101.32, có dung tích xi lanh 110cm3 của gia đình chở anh Lý Văn P về nhà, khi đến thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông, V điều khiển xe lấn sang phần đường bên trái, phát hiện xe mô tô BKS 48H3-5919 do ông Đặng Văn T điều khiển chạy ngược chiều, V đạp phanh, nhưng do khoảng cách gần nên xe mô tô do V điều khiển tiếp tục di chuyển va chạm với xe mô tô BKS 48H3-5919 do ông T điều khiển. Hậu quả, ông T bị thương tích nặng và chết trên đường đi cấp cứu. Đặng Xuân V và anh Lý Văn P bị thương nhẹ. Hai xe mô tô bị hư hỏng.

Hiện trường vụ tai nạn giao thông là đoạn đường nhựa bằng phẳng, đường thẳng, không có vạch kẻ phân chia làn đường, hai bên đường là khu vực dân cư sinh sống, mặt đường nhựa rộng 6,15m. Lấy hướng từ UBND xã N đi xã Đức Xuyên và mép đường bên phải làm chuẩn. Trên mặt đường phát hiện 01 vệt phanh màu đen, phần rộng nhất 4,4cm, phần nhỏ nhất 01cm. Đầu vết phanh cách mép đường phải 2,80m, vết cuối phanh cách mép đường phải 2,65m.

Điểm va chạm đầu tiên giữa xe mô tô BKS 48C1-101.32 với xe mô tô BKS 48H3-5919 chiếu vuông góc với mặt đường nhựa là vị trí cách mép đường phải 3,32m, cách trụ điện 1/5 bên lề đường phải là 16,20m cách cuối vết phanh là 1,70m.

Ti biên bản giám định an toàn kỹ thuật số 1368/SGTVT-VT ngày 19/6/2017 của Sở giao thông vận tải tỉnh Đăk Nông thể hiện: 02 xe mô tô BKS 48H3-5919 và BKS 48C1-101.32 không hoạt động được nên không xác định được tình trạng kỹ thuật.

Kết quả khám nghiệm tử thi ông Đặng Văn T thể hiện:

- Vùng đầu, mặt: Đầu tóc bám dính máu đã khô. Hai hốc mắt và hai bên gò má có vết thương trầy xước bầm tím da cơ trong diện tích (17 x 8)cm làm lộ rõ vòng sọ, lộ tổ chức não bộ. Gãy kín xương chín mũi, gãy vỡ sập xương gò má, gãy xương hàm trên, hàm dưới bên trái.

- Vùng cổ, ngực, bụng, lưng và tứ chi: Vai phải có vết thương xây xát da kích thước (3,5 x 1,5)cm, gãy kín đầu ngoài xương đòn phải, gãy kín xương sườn số 6, 7 cung trước trái, xây xước da vùng bụng trái, kích thước (5 x 0,4)cm.

- Vùng lưng, mông không phát hiện tổn thương.

- Tứ chi: Trầy xước, bầm tím da khuỷu tay phải, trầy xước rải rác cổ mu và các ngón bàn tay phải, bàn tay trái. Trầy xước, bầm tím gối phải, mắt cá ngoài chân phải, trong mu bàn chân phải; trầy xước, bầm tím từ đùi tới gối chân trái.

Gii phẫu vùng đầu theo vết thương da cơ vùng trán thấy: Xương vùng giữa trán sập vỡ nhiều mảnh trong diện tích (0,9 x 0,2)cm, màng cứng vùng trán thủng rách, tổ chức não vùng này dập lòi ra ngoài, một phần thoát ra ngoài qua vết thương.

Tại bản kết luận giám định pháp y số 87/TT ngày 22/5/2017 của Trung tâm pháp y, sở y tế tỉnh Đăk Nông kết luận nguyên nhân tử vong của ông Đặng Văn T là chấn thương sọ não.

Theo biên bản kiểm tra lúc 21 giờ 02 phút ngày 06/5/2017 tại Bệnh viện huyện K, trong khí thở của Đặng Xuân V có nồng độ cồn 0,707mg/lít khí thở.

Ti bản kết luận định giá tài sản số 332/BB-KLGĐ ngày 08/9/2017 của Hội đồng định giá trài sản trong tố tụng huyện K kết luận: tổng giá trị thiệt hại của từng bộ phận trên xe mô tô BKS 48H3-5919 ngày 06/5/2017 là 2.270.000 đồng.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra, bị cáo Đặng Xuân V và gia đình đã tự nguyện thỏa thuận bồi thường với gia đình người bị hại, không yêu cầu giải quyết.

Vt chứng vụ án: Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã thu giữ: 01 xe mô tô BKS 48C1-101.32, 01 xe mô tô BKS 48H3-5919, 01 mặt nạ xe mô tô, 01 chóa đèn xe mô tô, 01 mũ bảo hiểm, 03 đôi dép nhựa (Có đặc điểm như biên bản thu giữ).

Cáo trạng số: 31/CTr-VKS ngày 13/9/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố bị cáo Đặng Xuân V về tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a, điểm b - khoản 2 - Điều 202 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo Đặng Xuân V khai nhận toàn bộ nội dung như bản cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện K đã truy tố.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K thực hành quyền công tố luận tội và tranh luận, đề nghị Hội đồng xét xử: tuyên bố bị cáo Đặng Xuân V phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a, điểm b – khoản 2 – Điều 202; điểm b, điểm p – khoản 1, khoản 2 – Điều 46; Điều 47; Điều 69; Điều 74 Bộ luật hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Xuân V từ 18 tháng đến 24 tháng tù giam.

Về trách nhiệm dân sự: Gia đình bị cáo đã bồi thường gia đình người bị hại, tại phiên tòa gia đình người bị hại không có yêu cầu thêm nên không đề cập giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 41; Điều 42 Bộ luật hình sự; Chấp nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K trả ông Đặng Văn H 01 xe mô tô BKS 48C1-101.32, trả anh Đặng Văn C1 01 xe mô tô BKS 48H3-5919; tịch thu, tiêu hủy: 01 mặt nạ xe mô tô, 01 chóa đèn xe mô tô, 01 mũ bảo hiểm, 03 đôi dép nhựa.

Luật sư Võ Cao L trình bày luận cứ: tình tiết ông T điều khiển xe qua phần đường của bị cáo nên bị cáo tránh thì bất ngờ ông T quay lại, đây là sự kiện bất ngờ, cha mẹ bị cáo cũng có một phần lỗi trong việc quản lý tài sản, đề nghị HĐXX xem xét giảm nhẹ cho bị cáo.

Bị cáo không có ý kiến bào chữa, tranh luận, chỉ đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an huyện K, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện K, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 06/5/2017, tại thôn M, xã N, huyện K, tỉnh Đăk Nông, Đặng Xuân V điều khiển xe mô tô BKS 48C1-101.32 chạy nhanh, không làm chủ được tốc độ, đi lấn sang phần đường bên trái đã va chạm với xe mô tô biển kiểm soát 48H3-5919 do ông Đặng Văn T điều khiển, hậu quả ông Đặng Văn T chết trên đường đi cấp cứu, chiếc xe mô tô 48H3-5919 của ông T bi thiệt hại 2.270.000 đồng. Tại thời điểm xảy ra va chạm, Đặng Xuân V không có giấy phép lái xe theo quy định và đã sử dụng rượu bia, có nồng độ cồn 0.707mg/lít khí thở.

Như vậy, hành vi của Đặng Xuân V bị Viện kiểm sát nhân huyện K, tỉnh Đăk Nông truy tố về tôi “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” theo điểm a, điểm b - khoản 2 - Điều 202 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật, không oan.

Điều 202 Bộ luật Hình sự quy định:

“1. Người nào điều khiển phương tiện giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho tính mạng hoặc gây thiệt hại nghiêm trọng cho sức khoẻ, tài sản của người khác, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Không có giấy phép hoặc bằng lái xe theo quy định;

b) Trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định”

[3]. Xét tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo đã gây ra và nhân thân của bị cáo:

3.1. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm hại đến tính mạng và tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương. Khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo 16 tuổi 5 tháng 10 ngày, do đó áp dụng các quy định của pháp luật đối với người chưa thành niên phạm tội. Hội đồng xét xử xét thấy cần xử phạt bị cáo hình phạt tương xứng để giáo dục bị cáo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống; đồng thời giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

3.2. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại; Sau khi phạm tội bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải đối với hành vi phạm tội của mình. Gia đình người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo hưởng án treo. Do đó Hội đồng xét xử có căn cứ để áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, điểm p - khoản 1; khoản 2 - Điều 46 Bộ luật Hình sự. Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, xét thấy cần áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thể hiện chính sách nhân đạo của pháp luật

[4]. Anh Lý Văn P ngồi trên xe do bị cáo chở, anh P bị thương tích nhẹ, không có yêu cầu nên không đề cập giải quyết.

Ông Đặng Văn H  chủ sở hữu chiếc xe mô tô BKS 48C1-101.32. V tự ý lấy xe đi chơi, ông H không biết. Vì vậy không có cơ sở để xử lý trách nhiệm hình sự.

[5]. Về trách nhiệm dân sự: Chấp nhận bị cáo Đặng Xuân V và gia đình bị cáo đã tự nguyện bồi thường thiệt hại cho gia đình người bị hại.

[6]. Về biện pháp tư pháp: Chấp nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K trả ông Đặng Văn H 01 xe mô tô BKS 48C1-101.32, trả anh Đặng Văn C1 01 xe mô tô BKS 48H3-5919. Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng không còn giá trị sử dụng đã thu giữ trong quá trình điều tra.

[7]. Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí Hình sự sơ thẩm theo quy định tại điểm a - khoản 1 - Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/ UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí toà án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: bị cáo Đặng Xuân V phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”.

Áp dụng điểm a, điểm b – khoản 2 – Điều 202; điểm b, điểm p – khoản 1, khoản 2 – Điều 46; Điều 47; Điều 69; Điều 74 Bộ luật hình sự.

Xử phạt bị cáo Đặng Xuân V 01 năm 03 tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

2. Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo và gia đình người bị hại đã tự thỏa thuận bồi thường; không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về biện pháp tư pháp: Xử lý vật chứng: Căn cứ khoản 2, khoản 3 - Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự;

Chấp nhận cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện K trả ông Đặng Văn H 01 xe mô tô BKS 48C1-101.32, trả anh Đặng Văn C1 01 xe mô tô BKS 48H3-5919.

Tch thu, tiêu hủy: 01 mặt nạ xe mô tô, 01 chóa đèn xe mô tô, 01 mũ bảo hiểm, 03 đôi dép nhựa (Vật chứng có đặc điểm như trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 14/9/2017 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra và Chi cục Thi hành án dân sự huyện K).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng Hình sự; áp dụng điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30.12.2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý, sử dụng án phí, lệ phí toà án. Buộc bị cáo Đặng Xuân V phải chịu 200.000 đồng tiền án phí Hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo, Người đại diện hợp pháp của bị cáo, Luật sư, Người đại diện hợp pháp của người bị hại có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người đại diện hợp pháp của người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc Tòa án niêm yết bản án lên Tòa án cấp trên yêu cầu xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 31/2017/HSST ngày 09/10/2017 về tội vi phạm quy định ĐKPTGTĐB

Số hiệu:31/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Krông Nô - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 09/10/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về