Bản án 311/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 311/2019/HS-ST NGÀY 02/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02 tháng 10 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 286/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 8 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 330/2019/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 9 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Trần Đình H, sinh năm 1996 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 165/4A khu phố M, phường H Th, Quận MH, Thành phố Hồ Chí Minh; chỗ ở: Khu tái định cư L S, khu phố L S, phường L B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 8/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Trần Đức H (đã chết) và bà Mai Thị H, sinh năm 1952; bị cáo có 01 em ruột, sinh năm 2011; tiền án, tiền án: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 15/5/2019 đến ngày 24/5/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

2. Phạm Thị Quỳnh Nh, sinh năm 1998 tại Thành phố Hồ Chí Minh; thường trú: Số 43, khu phố L S, phường L B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; con ông Phạm Thanh Tr, sinh năm 1971 và bà Nguyễn Thị Kim L, sinh năm 1972; bị cáo có 03 chị em ruột, lớn sinh năm 1994, nhỏ sinh năm 2013; tiền án, tiền án: Không; bị bắt tạm giữ từ ngày 15/5/2019 đến ngày 24/5/2019 được thay đổi biện pháp ngăn chặn bằng Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú; bị cáo tại ngoại, có mặt.

- Bị hại: Bà Hồ Lê Ng, sinh năm 1997; thường trú: K1/11, khu phố B, phường B H, thành phố B H, tỉnh Đồng Nai; vắng mặt.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Khổng Bùi Hoàng Th, sinh năm 1997; thường trú: 46/58 khu phố Ng Th, phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương; vắng mặt.

* Người tham gia tố tụng khác:

- Người làm chứng:

1. Bà Trịnh Thị Kim L, sinh năm 1986; vắng mặt.

2. Bà Lê Kim Y, sinh năm 1973; vắng mặt.

3. Ông Trần Văn Th, sinh năm 1973; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bản thân Trần Đình H có quan hệ tình cảm với Phạm Thị Quỳnh Nh, trong thời gian quen nhau cả hai thường xuyên cùng nhau đi đón em của Nh tên Phạm Tiến Ph đang học lớp lá 2 tại Trường mầm non Ngh S thuộc khu phố Qu Th, phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương.

Khong 15 giờ ngày 14/5/2019, Trần Đình H điện thoại cho Phạm Thị Quỳnh Nh rủ đi đón em Phạm Tiến Ph, sau đó H điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave S màu xanh, biển số 61D1-811.74 đến đón Nh tại quán nước gần giáo xứ Ngh S rồi chở Nh vào khuôn viên Trường mần non Ngh S nằm trong khuôn viên giáo xứ thuộc khu phố Qu Th, phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, lúc này H dừng xe mô tô tại sân trường cho Nh ngồi trên xe đợi. Trong lúc đi lên lầu 1 thì H nhìn thấy chiếc xe mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2-660.23 của bà Hồ Lê Ng đang đậu cách đó khoảng 05m thì H chỉ tay vào chiếc xe này cho Nh nhìn thấy rồi tiếp tục đi lên lầu vào lớp học để đón Ph nhưng cô giáo thông báo Ph có người đón về rồi nên H quay ra về. Khi xuống dưới sân trường H vẫn nhìn thấy chiếc xe Vario đang đậu không có người trông coi. Lúc này, H tiếp cận xe Vario rồi dẫn bộ lại chỗ Nh đứng chờ, H nói với Nh là “anh đang thiếu nợ tiền, em thương anh giúp anh lần này đẩy xe này về” thì Nh biết H lấy trộm xe mô tô này. Sau đó Nh điều khiển xe mô tô hiệu Honda Wave S màu xanh, biển số 61D1-811.74 và dùng chân đẩy xe mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2- 660.23 do H điều khiển đi về phòng trọ của H tại khu tại định cư L S, phường L B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh cất giấu rồi Nh nhờ người bạn tên L (không rõ nhân thân, lai lịch) chở về nhà. Đến khoảng 08 giờ ngày 15/5/2019, H tháo biển số xe 60F2-660.23 của xe mô tô hiệu Vario và thay vào biển số 72G1-006.95 rồi H lên mạng tìm thợ mở khóa để đến mở khóa xe hiệu Vario. Sau đó, H điều khiển xe mô tô hiệu Vario đi đến con rạch gần phòng trọ vứt biển số xe 60F2- 660.23, rồi điều khiển xe chạy đến nhà bạn tên Trần Văn C tại khu phố N, phường Th A, Quận MH, Thành phố Hồ Chí Minh, H nói mới mua xe và nhờ gửi xe tại đây. Sau đó, H đi Grap về phòng trọ của mình.

Riêng bà Hồ Lê Ng sau khi đón con tại Trường mầm non Ngh S xuống sân trường thì phát hiện xe mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2-660.23 bị mất nên đến Công an phường B Th, thị xã D A trình báo, qua rà soát Camera tại Trường mầm non Ngh S phát hiện H và Nh chiếm đoạt xe mô tô của bà Ng nên Công an phường mời Nh đến làm việc, tại đây Nh đầu thú khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đồng thời chỉ dẫn cho Công an đến phòng trọ của H, tiến hành bắt khẩn cấp đối với H và thu hồi xe mô tô hiệu Vario.

Vật chứng thu giữ: 01 (một) mô tô hiệu Honda Wave S màu xanh, biển số 61D1-811.74, 01 (một) mô tô hiệu Vario, màu xanh đen.

Căn cứ Kết luận định giá tài sản số: 134/BB.ĐG ngày 24/5/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương kết luận: 01 (một) mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2-660.23, số khung MH1KF1120HK182631, số máy KF11E2180283, có trị giá 46.000.000 đồng.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về Kết luận định giá tài sản số: 134/BB.ĐG ngày 24/5/2019 của Hội đồng định giá thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương.

Đi với Trần Văn C không biết Trần Đình H chiếm đoạt xe mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2-660.23 gửi tại nhà mình nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập giải quyết.

Đi với biển số xe biển số 60F2-660.23 mà Trần Đình H khai vứt bỏ xuống con rạch gần phòng trọ thuộc khu tái định cư L S, phường L B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh, qua công tác truy tìm vật chứng Cơ quan Cảnh sát điều tra không tìm thấy vật chứng trên.

Tại Cáo trạng số: 300/CT-VKS ngày 22 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An trong phần tranh luận giữ nguyên quyết định truy tố các bị cáo Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh về tội “Trộm cắp tài sản” đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Trần Đình H từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Phạm Thị Quỳnh Nh từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng.

* Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 01 (một) mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2-660.23 đã thu hồi trả lại cho bị hại Hồ Lê Ngọc, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự không đặt ra xem xét.

* Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) mô tô hiệu Wave S màu xanh, biển số 61D1-811.74, số khung RLLHH009073Y118470, số máy HC12E7311598, Trần Đình Hiền sử dụng vào việc phạm tội, qua điều tra không xác định được nguồn gốc, đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng không có ai đến nhận nên đề nghị tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) biển số 72G1-006.96, qua xác minh là biển số giả nên đề nghị tịch thu tiêu hủy.

Trước khi Hội đồng xét xử nghị án, các bị cáo không có ý kiến tranh luận với Viện kiểm sát về điều luật áp dụng, khung hình phạt, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng đồng thời bị cáo xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo và bị hại không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Khoảng 15 giờ ngày 14/5/2019, tại Trường mầm non Ngh S thuộc khu phố Qu Th, phường B Th, thị xã D A, tỉnh Bình Dương, lợi dụng sơ hở, thiếu cảnh giác của bị hại Hồ Lê Ng, các bị cáo Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh đã lén lút chiếm đoạt 01 (một) mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2- 660.23, có trị giá 46.000.000 đồng.

[3] Như vậy, hành vi trên đây của các bị cáo Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh đã lén lút chiếm đoạt tài sản của bị hại, trị giá 46.000.000 đồng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Do đó, Cáo trạng số: 300/CT-VKS ngày 22 tháng 8 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và kết luận của Kiểm sát viên truy tố các bị cáo Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; các bị cáo hoàn toàn đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự.

[4] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện tuy ít nghiêm trọng nhưng đã xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người bị hại, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Về nhận thức các bị cáo hoàn toàn biết hành vi trộm cắp tài sản của người khác là trái pháp luật nhưng vì lòng tham, muốn kiếm tiền nhanh chóng không phải lao động để phục vụ nhu cầu bản thân mà các bị cáo cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo và có tác dụng đấu tranh phòng ngừa chung.

[5] Đây là vụ án có tính chất đồng phạm nhưng là giản đơn không có sự cấu kết chặt chẽ, không có sự bàn bạc, phân công vai trò cụ thể khi thực hiện hành vi phạm tội nên không xem là phạm tội có tổ chức. Trong vụ án này bị cáo H là rủ bị cáo Nh và cùng với bị cáo Nh chiếm đoạt tài sản của bị hại.

[6] Tình tiết tặng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

[7] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng. Đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Bị cáo Phạm Thị Quỳnh Nh sau khi phạm tội đầu thú và khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình nên được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[8] Về nhân thân: Các bị cáo là người chưa có tiền án, tiền sự. Bị cáo Trần Đình H không có nghề nghiệp ổn định nên cũng cần xem xét khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

[9] Về hình phạt:

- Hình phạt chính: Xét các bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng, nhưng xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, bị cáo muốn kiếm tiền nhanh chóng để phục vụ nhu cầu của bản thân mà bị cáo cố tình chiếm đoạt tài sản của bị hại đồng thời tình hình trộm cắp trên địa bàn thị xã Dĩ An diễn ra hết sức tinh vi, phức tạp. Vì vậy Hội đồng xét xử quyết định áp dụng hình phạt tù đối với các bị cáo, cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ để giáo dục, cải tạo các bị cáo thành những công dân có ích cho gia đình, xã hội và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung. Đồng thời để đảm bảo cho việc thi hành án nên cần áp dụng các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 104, 105/2019/HSST-LCĐKNCT ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương đối với Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh.

- Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 “Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng”. Tuy nhiên, các bị cáo là người không có nghề nghiệp ổn định, áp dụng phạt tù cũng đủ để răn đe, giáo dục bị cáo nên Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

[10] Đối với Trần Văn C không biết Trần Đình H chiếm đoạt xe mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2-660.23 gửi tại nhà mình nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã D A, tỉnh Bình Dương không đề cập giải quyết và đối với biển số xe biển số 60F2-660.23 mà H khai vứt bỏ xuống con rạch gần phòng trọ thuộc khu tái định cư L S, phường L B, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh, qua công tác truy tìm vật chứng Cơ quan Cảnh sát điều tra không tìm thấy vật chứng trên là đúng theo quy định của pháp luật.

[11] Về trách nhiệm dân sự: Tài sản bị chiếm đoạt trong vụ án là 01 (một) mô tô hiệu Vario, màu xanh đen, biển số 60F2-660.23 đã thu hồi trả lại cho bị hại Hồ Lê Ng, bị hại không yêu cầu gì khác nên trách nhiệm dân sự Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[12] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 (một) mô tô hiệu Wave S màu xanh, biển số 61D1-811.74, số khung RLLHH009073Y118470, số máy HC12E7311598, Trần Đình Hiền sử dụng vào việc phạm tội, qua điều tra không xác định được nguồn gốc, đã đăng báo tìm chủ sở hữu nhưng không có ai đến nhận nên tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước.

- Đối với 01 (một) biển số 72G1-006.96, qua xác minh là biển số giả nên tịch thu tiêu hủy.

[13] Xét đề nghị Viện kiểm sát về tội danh, điều luật áp dụng, khung hình phạt, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của bị cáo, trách nhiệm dân sự và xử lý vật chứng là phù hợp nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[14] Án phí sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Trần Đình H 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù được tính ngày bắt để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/5/2019 đến ngày 24/5/2019.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm i, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Phạm Thị Quỳnh Nh 01 (một) năm tù. Thời hạn tù được tính ngày bắt để thi hành án, được khấu trừ thời gian tạm giữ từ ngày 15/5/2019 đến ngày 24/5/2019.

Tiếp tục áp dụng các Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 104, 105/2019/HSST- LCĐKNCT ngày 26 tháng 8 năm 2019 của Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương, kể từ khi tuyên án đến khi Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh đi chấp hành án phạt tù.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Tịch thu sung vào Ngân sách Nhà nước 01 (một) mô tô hiệu Wave S màu xanh, biển số 61D1-811.74, số khung RLLHH009073Y118470, số máy HC12E7311598 (xe không hoạt động, không kiểm tra tình trạng bên trong) và 01 (một) biển số xe 72G1-006.95.

(Theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/8/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Dĩ An với Chi cục thi hành án dân sự Dĩ An, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng Hình sự; điểm c khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy Ban thường vụ Quốc Hội khoá 14 về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án.

Các bị cáo Trần Đình H, Phạm Thị Quỳnh Nh, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt bản án hợp lệ./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

214
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 311/2019/HS-ST ngày 02/10/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:311/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về