Bản án 309/2021/HS-PT ngày 14/07/2021 về tội buôn bán hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI HÀ NỘI

BẢN ÁN 309/2021/HS-PT NGÀY 14/07/2021 VỀ TỘI BUÔN BÁN HÀNG CẤM

Ngày 14 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, xét xử Phúc thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 329/2021/TLPT-HS ngày 20/4/2021 đối với bị cáo Trương Văn A và đồng phạm do có kháng cáo của bị cáo đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HS-ST ngày 09/03/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng đối với các bị cáo:

1. Trương Văn A, sinh ngày 01 tháng 3 năm 1987 tại CY, HQ, Cao Bằng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm HĐ, xã CY, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 9/12 phổ thông; dân tộc: Tày; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Thanh B, sinh năm 1964 và bà Nông Thị L, sinh năm 1965; có vợ là Liêu Thị B, sinh năm 1988 và 02 con; tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 15-9- 2020 đến ngày 09-10-2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng Bảo Lĩnh, hiện nay đang tại ngoại ở nơi cư trú; có mặt.

2.Vi Văn A1, sinh ngày 16 tháng 7 năm 1986 tại TC, HQ, Cao Bằng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm CP, xã TC, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hóa: lớp 12/12 phổ thông; dân tộc: Nùng; giới tính: nam, tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Vi Văn S, sinh năm 1964 và bà Dương Thị H, sinh năm 1965; có vợ là Triệu Thị V, sinh năm 1988 và 02 con; tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 15-9-2020 đến ngày 25-12-2020 được thay thế biện pháp ngăn chặn bằng Bảo Lĩnh, hiện nay đang tại ngoại ở nơi cư trú; có mặt.

3. Trương Văn A3, sinh ngày 05 tháng 9 năm 1984 tại HQ, Cao Bằng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Xóm KS, xã TC, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 10/12 phổ thông; dân tộc: Nùng; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Trương Văn T, sinh năm 1953 và bà Dương Thị K, sinh năm 1955; có vợ là Dương Thị H, sinh năm 1988 và 01 con; tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 15-9- 2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng; có mặt.

4. Hoàng A4, sinh ngày 30 tháng 8 năm 1985 tại ĐT, Thành phố CB, tỉnh Cao Bằng; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và chỗ ở: Tổ 7, phường ĐT, Thành phố CB, tỉnh Cao Bằng; nghề nghiệp: lao động tự do; trình độ văn hoá: lớp 10/12 phổ thông; dân tộc: Tày; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Hoàng K, sinh năm 1951 và bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1953; có vợ là Nguyễn Thị C, sinh năm 1989 và 01 con; tiền án, tiền sự: không có. Bị cáo bị bắt, tạm giam từ ngày 15-9-2020 đến nay, hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Cao Bằng; có mặt.

- Người bào chữa cho các bị cáo: Ông Nông Văn A5, Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Cao Bằng bào chữa cho cả 4 bị cáo Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 00 giờ 05 A4t ngày 14 tháng 7 năm 2020, tổ công tác Phòng Cảnh sát kinh tế Công an tỉnh Cao Bằng đang làm nhiệm vụ tại khu vực gần Mốc 718 thuộc LL, xóm KS, xã TC, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng phát hiện 05 người gồm: Hoàng Văn A6, sinh năm 2003; Hoàng Văn A7, sinh năm 1978; Trương Văn A8, sinh năm 1974; Trương Văn A9, sinh năm 1978, cùng trú tại xóm KS, xã TC, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng; Hoàng Văn A10, sinh năm 1968, trú tại xóm LR, xã TC, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng đang dắt mỗi người một con lồ (con ngựa) thồ hàng hóa về phía khu vực biên giới Việt Nam Trung Quốc. Tiến hành kiểm tra phát hiện mỗi con lồ chở 02 bao tải dứa màu xám, bên trong mỗi bao tải đựng một thùng cát tông, mỗi thùng đựng 50 cây thuốc lá điếu, mỗi cây có 10 bao, tổng cộng là 5.000 bao, mặt ngoài mỗi cây thuốc lá có in chữ “Furongwang”. Tổ công tác đã đưa 05 người trên cùng toàn bộ số hàng hóa về trụ sở Đồn Biên phòng TC để làm việc.

Trên đường về đến xóm KS, xã TC, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng có Vi Văn A1, sinh năm 1986, trú tại CP, TC, HQ và Trương Văn A3, sinh năm 1985, trú tại KS, TC, HQ đến nhận là chủ toàn bộ số hàng trên, tổ công tác đã yêu cầu A1 và A3 về Đồn Biên phòng TC để làm việc và niêm phong toàn bộ số hàng theo quy định.

Quá trình điều tra xác định được các bị cáo đã hai lần thực hiện hành vi mua bán thuốc lá cụ thể như sau:

Lần thứ 1 khoảng cuối tháng 6/2020, Vi Văn A1 nhận được cuộc gọi từ điện thoại của một người đàn ông Trung Quốc tên A11 nhờ tìm mua thuốc lá điếu Trung Quốc có ký hiệu 217 ở đầu cây thuốc, loại bao màu vàng. A1 nhận lời và gọi điện thoại cho Trương Văn A3 để tìm giúp, A3 đồng ý và gọi điện thoại cho Hoàng A4, sinh năm 1985, trú tại tổ 7, phường ĐT, Thành phố CB, tỉnh Cao Bằng để hỏi thì A4 đồng ý và lên nhóm Wechat hỏi xem ai có loại thuốc lá này không thì có Trương Văn A, sinh năm 1987, trú tại xóm HĐ, xã CY, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng thông báo là có loại thuốc lá A4 đang tìm bán, giá 2.500 CNY (nhân dân tệ) 01 thùng. Sau đó, A4 báo lại cho A3, A1 giá là 2.650 CNY/01 thùng, A1 thông báo cho A11 thì A11 đồng ý mua 05 thùng với giá là 2.850 CNY/01 thùng, địa điểm giao nhận hàng tại Mốc 718 xã TC, huyện HQ. A1 đồng ý và cùng A3, A4, A thống nhất địa điểm giao dịch tại ngã tư NC thuộc phường SH, Thành phố CB. Sau đó, A1 đến Mốc 718 để nhận tiền với A11 và mượn xe ô tô xuống Thành phố CB để lấy hàng, còn A mượn xe ô tô đến khu vực Mốc 626 thuộc xã CY, huyện HQ lấy 05 thùng thuốc lá với một người đàn ông Trung Quốc tên là “A12” chở đến ngã tư NC giao cho A4, A3, A1 và đi về, A3 đưa tiền cho A4 rồi đi xe máy về trước để dò đường, còn A1 chở thuốc lá đi theo sau. Về đến xã TC, huyện HQ, A1 thuê Hoàng Văn A10 vận chuyển 05 thùng thuốc lá đến Mốc 718 với tiền công 200.000 đồng/01 thùng để giao cho A11. Ngày 29-6-2020, A4 chuyển khoản 41.600.000 đồng cho A để trả tiền hàng.

Lần thứ hai ngày 13-7-2020, A11 tiếp tục gọi điện thoại cho A1 đặt mua 10 thùng thuốc lá, A1 đồng ý và cùng A3, A4, A thống nhất chiều tối ngày 13-7-2020 sẽ giao nhận hàng tại ngã ba NT thuộc xã ĐL, huyện HA, tỉnh Cao Bằng. Sau khi thống nhất xong, A1 đến Mốc 718 gặp A11 lấy tiền, A11 đưa cho A1 02 vạn nhân dân tệ và nói số tiền còn lại khi nào giao hàng thì sẽ trả hết. Nhận được tiền, A1 gọi điện thoại cho Vi Văn A12, sinh năm 1972, trú tại thị trấn XH, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng hỏi mượn xe ô tô để chở hàng, A12 đồng ý và nói đang ở Thành phố CB, A1 gửi cho A12 số điện thoại của A3 và nói lên ngã ba NT đường rẽ vào TN thì gọi cho A3, gọi điện thoại cho A12 xong A1 đi xe máy xuống địa điểm giao nhận hàng. Khoảng 17 giờ cùng ngày, A3 cùng A4 đi mỗi người một xe máy đến ngã ba NT chờ A ở quán nước cạnh đường, đến chiều tối cùng ngày A12 đi xe ô tô biển kiểm soát 12A-1984 đến và cùng A3, A4 ngồi chờ. Khoảng 19 giờ cùng ngày, A chở hàng ra đến nơi gọi điện thoại cho A4, A4 cùng A12 đi ô tô rẽ vào đường đi TN thì gặp xe của A rồi cùng nhau chuyển 10 thùng thuốc lá sang xe của A12, chuyển xong A12 lái xe đi về hướng HQ, còn A, A4 quay lại quán nước để gặp A1 lấy tiền. A1 đưa cho A4 20.000 CNY để trả cho A và nói số tiền còn lại trả sau. Sau đó, A3 đi xe máy về trước để dò đường, còn A1 đi theo sau, đến NG A1 đưa xe máy cho A12 đi về, còn mình đi ô tô chở 10 thùng thuốc lá về NL, TC, HQ. Đến nơi A1 thuê Hoàng Văn A6, Hoàng Văn A7, Trương Văn A8, Trương Văn A9, Hoàng Văn A10 chuyển số thuốc lá trên đến Mốc 718 để giao cho A11. Khi đến khu vực Mốc 718 thuộc LL, xóm KS, xã TC, huyện HQ thì bị phát hiện bắt giữ.

Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng:

Tuyên bố: Các bị cáo Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với cả bốn bị cáo.

Xử phạt:

Trương Văn A 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt vào trại giam chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 15-9-2020 đến ngày 09-10-2020.

Vi Văn A1 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt vào trại giam chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 15-9-2020 đến ngày 25-12-2020.

Trương Văn A3 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 15-9-2020.

Hoàng A4 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 15-9-2020.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về xử lý vật chứng, án phí và thông báo quyền kháng cáo theo luật định. Từ ngày 15 đến ngày 22/3/2021, các bị Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 có đơn cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt,

Tại phiên toà: Các bị cáo Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như đã nêu ở trên. Các bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt với lý do các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình, bị cáo A3, A4 thuộc diện hộ nghèo, hiểu biết pháp luật của các bị cáo hạn chế. Sau khi vụ án bị phát hiện các bị cáo A khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án.

Quan điểm của đại diện kiểm sát: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ, lời khai của các bị cáo tại phiên tòa thấy: Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt các bị cáo Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 mỗi bị cáo 8 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật. Tại phiên tòa Phúc thẩm hôm nay, không có tình tiết gì mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

Quan điểm của người bào chữa: Ông Nông Văn A5 bào chữa cho bị cáo Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4: Trước khi phạm tội các bị cáo đều là lao động tự do, bị cáo A3, A4 thuộc diện hộ nghèo, dịch bệnh COVID- 19 đã ảnh hưởng đến đời sống của các bị cáo, hiểu biết pháp luật của các bị cáo hạn chế, các bị cáo mua thuốc lá từ người Trung Quốc và bán lại cho người Trung Quốc nên hậu quả của hành vi phạm tội không quá nghiêm trọng. Đề nghị Hội đồng xét xử cho các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ tại điểm s, t khoản 1 Điều 51. Bị cáo A1 được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại điểm v khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự do bị cáo A khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong quá trình giải quyết vụ án, A1 trong thời gian làm công tác Đoàn được tặng nhiều Bằng khen, Giấy khen. Bị cáo A, A4 có bố được tặng thưởng Huân chương được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo A1, A3 vì khi biết số thuốc lá bị bắt giữ đã tự nguyện đến đầu thú được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt đối với các bị cáo.

Bị cáo Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 không bào chữa bổ sung.

Lời nói sau cùng các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an tỉnh Cao Bằng, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng, Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.

[2] Về hành vi phạm tội: Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ Lời khai nhận của các bị cáo tại phiên tòa hôm nay có đủ căn cứ kết luận: Từ cuối tháng 6 năm 2020 đến ngày 14-7-2020, Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 đã hai lần cùng nhau thực hiện hành vi mua bán 7.500 bao thuốc lá điếu nhãn hiệu “Furongwang” được sản xuất tại nước ngoài, không có tem thuốc lá điếu nhập khẩu. Cụ thể từng lần như sau:

Lần thứ nhất: Cuối tháng 6-2020, A bán cho A1, A3, A4 05 thùng thuốc là điếu (2.500 bao) tại ngã tư NC thuộc phường SH, Thành phố CB, tỉnh Cao Bằng với tổng số tiền 12.500 CNY, số thuốc lá trên A1, A3 mang bán cho người Trung Quốc được 14.250 CNY, A4 được hưởng chênh lệch 750 CNY.

Lần thứ hai: Ngày 13-7-2020, A bán cho A1, A3, A4 10 thùng thuốc lá điếu (5.000 bao) tại ngã ba NT đường rẽ đi TN thuộc xã ĐL, huyện HA, tỉnh Cao Bằng với số tiền 25.000 CNY, toàn bộ số thuốc lá trên A1 thuê người vận chuyển đến Mốc 718 để giao cho A11 người Trung Quốc thì bị phát hiện và bắt giữ.

[3] Xét kháng cáo của các bị cáo Hội đồng xét xử thấy như sau: Hành vi phạm tội của các bị cáo đã xâm phạm đến chính sách độc quyền của Nhà nước về quản lý một số loại hàng hóa có tính năng, tầm quan trọng đối với nền kinh tế và trật tự an toàn xã hội. Các bị cáo đã buôn bán mặt hàng thuốc lá điếu nhập lậu không dán tem thuốc lá điếu nhập khẩu Nhà nước cấm kinh doanh. Hành vi buôn bán 7.500 bao thuốc lá điếu nhập lậu của các bị cáo đã gây ảnh hưởng xấu đến chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước, ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh và trật tự an toàn xã hội, có đủ yếu tố cấu A tội phạm về tội “Buôn bán hàng cấm” thuộc trường hợp “Thuốc lá điếu nhập lậu 4.500 bao trở lên” quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Hình sự.

Trước khi quyết định hình phạt đối với các bị cáo, Tòa án cấp sơ thẩm cũng đã xem xét về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự. Các bị cáo đều phải chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự và được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội A khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, ông Trương Thanh B là bố bị cáo Trương Văn A đã có niên hạn và A tích trong công tác ở biên giới phía Bắc, góp phần xây dựng Quân đội, củng cố Quốc phòng và bảo vệ Tổ quốc được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba; ông Hoàng K là bố bị cáo Hoàng A4 đã có A tích trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Kháng chiến hạng Nhất; bị cáo Vi Văn A1 có A tích trong công tác Đoàn được tặng thưởng nhiều Giấy khen được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Khi bị lực lượng chức năng bắt giữ số hàng, Vi Văn A1, Trương Văn A3 đã ra đầu thú được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự đề quyết định xử phạt mỗi bị cáo 8 năm tù về tội “Buôn bán hàng cấm” theo quy định tại điểm b khoản 3 Điều 190 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật.

Mặc dù tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 có xuất trình biên lai xác nhận đã nộp lại số tiền thu lời bất chính, nhưng đây không phải là tình tiết để làm căn cứ giảm hình phạt cho các bị cáo. Do đó mức hình phạt cần được giữ nguyên và xác nhận bị các bị cáo đã nộp hết số tiền thu lời bất chính.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đã đánh giá đầy đủ tính chất, hậu quả của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và đề nghị giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm đối với các bị cáo là có căn cứ, cần được chấp nhận.

[4]. Các tình tiết mà bị cáo cũng như luật sư bào chữa cho các bị cáo nêu ra tại phiên tòa Phúc thẩm đều là những tình tiết đã được xem xét tại phiên tòa sơ thẩm. Trong quá trình giải quyết vụ án theo trình Phúc thẩm cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo, người bào chữa cho bị cáo không đưa ra thêm được những chứng cứ tình tiết đặc biệt nào mới để xem xét giảm nhẹ hình phạt đối với các bị cáo. Do đó Hội đồng xét xử bác kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm.

[5]. Do kháng cáo không được chấp nhận nên bị cáo phải chịu án phí hình sự Phúc thẩm.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của các bị cáo giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng, cụ thể như sau:

[2] Tuyên bố: Các bị cáo Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Căn cứ vào điểm b khoản 3 Điều 190; điểm s khoản 1; khoản 2 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 58 của Bộ luật Hình sự đối với cả bốn bị cáo,

Xử phạt: Trương Văn A 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt vào trại giam chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 15-9-2020 đến ngày 09-10-2020.

Vi Văn A1 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt vào trại giam chấp hành án và được khấu trừ thời gian tạm giữ, tạm giam từ ngày 15-9-2020 đến ngày 25-12-2020.

Trương Văn A3 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 15-9-2020.

Hoàng A4 08 (tám) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 15-9-2020.

[3]. Về án phí: Các bị cáo Trương Văn A, Vi Văn A1, Trương Văn A3, Hoàng A4 mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự Phúc thẩm.

Xác nhận: Bị cáo Trương Văn A3 đã nộp 1.200.000 (một triệu hai trăm nghìn đồng) tiền thu lời bất chính được thể hiện tại biên lai thu tiền số 0000138 ngày 14/7/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Cao Bằng.

Bị cáo Hoàng A4 đã nộp 2.400.000 (hai triệu bốn trăm nghìn đồng) tiền thu lời bất chính được thể hiện tại biên lai thu tiền số 0000139 ngày 14/7/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Cao Bằng.

Bị cáo Vi Văn A1 đã nộp 1.100.000 ( một triệu một trăm nghìn đồng) tiền thu lời bất chính được thể hiện tại biên lai thu tiền số 0000140 ngày 14/7/2021 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Cao Bằng.

[4]. Các quyết định khác của Bản án hình sự sơ thẩm số 19/2021/HS-ST ngày 09 tháng 3 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Bản án Phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

203
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 309/2021/HS-PT ngày 14/07/2021 về tội buôn bán hàng cấm

Số hiệu:309/2021/HS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân cấp cao
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 14/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về