Bản án 309/2018/HNGĐ-ST ngày 07/09/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BIÊN HÒA, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 309/2018/HNGĐ-ST NGÀY 07/09/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Trong ngày 07 tháng 9 năm 2018 tại trụ sở, Tòa án nhân dân thành phốBiên Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 909/2018/TLST-HNGĐ ngày 26 tháng 4 năm 2018 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 316/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 30/7/2018 và Quyết định hoãn phiên tòa số 555/2018/QĐST-HNGĐ ngày 16/8/2018 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1988.

Địa chỉ: Lô 207, Khu công nghiệp A, phường L, TP. B, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Ông Trần Đức H, sinh năm 1985.

Địa chỉ: 42/2, KP.7, phường T, TP. B, tỉnh Đồng Nai.(Bà H có đơn xin xét xử vắng mặt; ông H vắng mặt không rõ lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Nguyên đơn – bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà và ông Trần Đức H xây dựng gia đình với nhau vào năm 2010 trên cơ sở cả hai tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, TP. B, tỉnh Đồng Nai. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc. Từ đầu năm 2015 thì bắtđầu phát sinh mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp dẫn đến cả hai đã sống ly thân hơn 03 năm nay, không còn quan tâm lẫn nhau. Năm 2015 bà đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân TP. B và đã rút đơn để tạo cơ hội hàn gắn gia đình nhưng mâu thuẫn giữa vợ chồng vẫn không khắc phục được mà ngày càng trầm trọng hơn. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông H.

Về con chung: Ông bà có 01 con chung là cháu Trần Bảo L, sinh ngày 11/11/2011. Ly hôn, bà đồng ý giao cháu L cho ông H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng vì từ khi cả hai sống ly thân đến nay cháu vẫn ở với ba, tạm thời bà không cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn ông Trần Đức H:

Mặc dù đã được Tòa án tống đạt, triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, cũng không cung cấp văn bản trình bày ý kiến của mình về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Tòa án đã tống đạt, triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng ông Trần Đức H vẫn vắng mặt không rõ lý do, còn bà Nguyễn Thị H có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà H và ông H theo quy định tại điểm a, b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228; Điểu 238 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Nguyễn Thị H và ông Trần Đức H tự nguyện xây dựng gia đình với nhau vào năm 2010 trên cơ sở cả hai tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, TP. B, tỉnh Đồng Nai nên nên căn cứ các Điều 9, Điều 11 và Điều 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được xác định là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn, bà H khởi kiện vụ án xin ly hôn nên căn cứ Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết.

 [3] Về yêu cầu xin ly hôn của bà H nhận thấy:

Bà H xin ly hôn ông H với lý do bất đồng về quan điểm sống, tính tình không còn hòa hợp dẫn đến cả hai đã sống ly thân hơn 03 năm nay, không còn quan tâm lẫn nhau, năm 2015 bà đã nộp đơn ly hôn tại Tòa án nhân dân TP. B và đã rút đơn để tạo cơ hội hàn gắn gia đình nhưng mâu thuẫn giữa vợ chồng vẫn không khắc phục được mà ngày càng trầm trọng hơn. Về phía ông H mặc dù đã được Tòa án nhân dân TP. B triệu tập hợp lệ rất nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt không có lý do và cũng không thể hiện quan điểm của mình đối với yêu cầu xin ly hôn của bà H. Do ông H vắng mặt trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không thể tiến hành hoà giải đoàn tụ được.

Trong quá trình giải quyết vụ án, mặc dù đã được động viên hòa giải nhiều lần nhưng bà H vẫn kiên quyết xin ly hôn với ông H. Điều này thể hiện mâu thuẫn giữa bà H và ông H đã trầm trọng nhưng cả hai không cố gắng khắc phục mâu thuẫn để vợ chồng có thể hàn gắn, đoàn tụ, dẫn đến tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của bà H.

[4] Về con chung:

Bà H và ông H có 01 con chung là cháu Trần Bảo L, sinh ngày 11/11/2011. Xét thấy từ khi bà H và ông H sống ly thân với nhau thì cháu L sống với ông H; quá trình giải quyết vụ án ông H không lên Tòa án làm việc nên không có ý kiến về vấn đề con chung và cấp dưỡng nuôi con. Nay bà H cũng đồng ý giao cháu L cho ông H tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng Hội đồng xét xử giao cháu L cho ông H chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời bà H không phải cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung:

Theo bà H trình bày thì về tài sản chung và nợ chung ông bà không có. Tuy nhiên, do chưa có ý kiến của ông H về các vấn đề này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét giải quyết, nếu sau này có tranh chấp, các bên sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[6] Về án phí: Bà H phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

[7] Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Biên Hòa phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của thẩm phán, Hội đồng xét xử và những người tham gia tố tụng: Thực hiện đúng theo các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, riêng bị đơn không chấp hành các quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H; Về con chung: Đề nghị giao cháu L cho ông H chăm sóc, nuôi dưỡng, tạm thời bà H không phải cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung và nợ chung: đề nghị tách ra giải quyết bằng một vụ án khác khi các bên có yêu cầu; Về án phí: Bà H phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147; điểm a, b khoản 2 Điều 227; khoản 1 và khoản 3 Điều228; Điều 235; Điều 238; Điều 266 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

- Áp dụng các Điều 9, 11, 12 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000; các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 131 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Nguyễn Thị H.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Trần Đức H.

2. Về con chung: Giao cháu Trần Bảo L, sinh ngày 11/11/2011 cho ông Hchăm sóc, nuôi dưỡng đến tuổi trưởng thành và có khả năng lao động; tạm thời bàH không phải cấp dưỡng nuôi con.Bà H có quyền thăm nom con chung không ai được cản trở.

Vì lợi ích của các con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con chung.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không xem xét giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà H phải nộp 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai số 006762 ngày 16/4/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố B.

5. Bà H và ông H có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

183
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 309/2018/HNGĐ-ST ngày 07/09/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:309/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về