Bản án 307/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẠ LONG, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 307/2020/HS-ST NGÀY 28/09/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 28 tháng 9 năm 2020 tại Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 324/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 9 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 329/2020/QĐXXST-HS ngày 17 tháng 9 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Thị T; sinh ngày 04 tháng 8 năm 1987 tại tỉnh Quảng Ninh; Nơi cư trú: tổ 51, khu 5, phường Tr, Tp H, tỉnh Quảng Ninh; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: 6/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nữ; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn H1 và bà Nguyễn Thị O; Có chồng là Phan Hữu K và 02 (Hai) con; Tiền án, Tiền sự: Không. Đầu thú ngày 15/5/2020 Hiện đang thi hành Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú 45 ngày, kể từ ngày 15/9/2020 của TAND Tp Hạ Long. Có mặt

* Bị hại: Bùi Xuân Th, Sn 1988. Nơi ĐKHKTT: tổ 59, khu 6B, phường P, Tp H, tỉnh Quảng Ninh; Vắng mặt, có đơn xin xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 15 giờ ngày 13/5/2020 Nguyễn Thị T đi từ nhà đến cửa hàng điện thoại HH Mobile của anh Bùi Xuân Th tại số 51, tổ 4, khu 1, phường C, Tp H để bán điện thoại Iphone X màu trắng và mua chiếc điện thoại Iphone 6s. Anh Th lấy ra 03 (ba) chiếc điện thoại Iphone 6s đặt lên mặt tủ kính để T chọn. Lúc này có khách hàng đến hỏi mua điện thoại, anh Th lấy 3-4 chiếc điện thoại khác trong đó có 01 (Một) điện thoại IphoneX màu đen dung lượng 64GB, số IMEI 35305001935955 đã qua sử dụng cho khách xem. Người khách không mua và ra về. T cầm chiếc IphoneX màu đen xem đồng thời thống nhất bán chiếc điện thoại của T cho anh Th giá 7.700.000đ và mua Iphone 6s của anh Th giá 2.800.000đ; anh Th trả lại T 4.900.000đ. Trong khi giao dịch anh Th không để ý đến chiếc IphoneX màu đen nên T nảy sinh ý định trộm cắp điện thoại này để sử dụng đồng thời tỳ cánh tay trái lên để che giấu chiếc điện thoại, khi anh Th đưa T 1 dây sạc, 1 tai nghe cùng túi nilon màu trắng để đựng đồ, lợi dụng lúc anh Th đang viết sổ sách T lén lút lấy trộm chiếc Iphone X màu đen bỏ vào túi cùng phụ kiện rồi ra về.

Ngày 15/5/2020 bị cáo đến Công an thành phố Hạ Long đầu thú đồng thời tự nguyện giao nộp vật chứng vụ án để khắc phục hậu quả.

Bản kết luận định giá tài sản số 91/KLĐG ngày 18/5/2020 của Hội đồng định giá tài sản Tp Hạ Long kết luận: Giá của 01 (Một) điện thoại nhãn hiệu Iphone X màu đen, dung lượng 64GB, IMEI 35305001935955 đã qua sử dụng tại thời điểm bị xâm phạm là 9.900.000đ (Chín triệu chín trăm nghìn đồng) Cáo trạng số 297/CT-VKSHL ngày 06/9/2020 Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long truy tố bị cáo Nguyễn Thị T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long giữ nguyên quan điểm truy tố và đề nghị căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 và khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự; Xử phạt Nguyễn Thị T từ 6 đến 9 tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12-18 tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Về phần dân sự: tài sản bị hại đã nhận lại và không yêu cầu bồi thường nên không đề cập.

Bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội như nội dung vụ án đã nêu, việc bị truy tố và đưa ra xét xử là đúng người đúng tội không oan, đã được thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của pháp luật; được giải thích về việc công bố bản án trên Cổng thông tin điện tử; T xác nhận người phụ nữ thực hiện hành vi trộm cắp trong đoạn video được trích xuất từ camera chính là bị cáo và xin được hưởng khoan hồng của pháp luật.

Bị hại có lời khai thể hiện: khoảng 15 giờ ngày 13/5/2020, T đến cửa hàng điện thoại của anh tại tổ 4, khu 1, phường Cao Thắng, Tp Hạ Long để mua điện thoại Iphone 6s màu vàng và bán lại cho anh điện thoại IphoneX -64GB màu trắng, sau khi mua bán xong anh phát hiện bị mất điện thoại IphoneX 64GB màu đen anh kiểm tra camera an ninh và nghi chị T là người trộm cắp chiếc điện thoại này, ngày 14/5/2020 anh trình báo cơ quan chức năng. Anh đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Hạ Long, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự, bảo đảm các quyền, nghĩa vụ của những người tham gia tố tụng, không có khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Về chứng cứ xác định có tội: Lời khai nhận hành vi phạm tội của bị cáo về việc nảy sinh ý định, lén lút, lợi dụng sơ hở, mất cảnh giác của bị hại để trộm cắp tài sản, phù hợp với lời khai của bị hại về việc bị mất tài sản; phù hợp với bản ảnh, bản ảnh vật chứng, biên bản giao nhận tài liệu, đồ vật, dữ liệu điện tử; video hình ảnh bị cáo trộm cắp tài sản, biên bản khám nghiệm hiện trường, sơ đồ hiện trường, bản ảnh hiện trường và bản kết luận định giá tài sản.

Như vậy, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 13/5/2020 tại cửa hàng điện thoại HH Mobile - số nhà 51, tổ 4, khu 1, phường C, Tp H Nguyễn Thị T có hành vi trộm cắp điện thoại Iphone X màu đen dung lượng 64GB, số IMEI 35305001935955 đã qua sử dụng trị giá 9.900.000đ (Chín triệu chín trăm nghìn đồng) của anh Bùi Xuân Th. Tội danh và hình phạt được tại khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự:

“1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000đồng đến dưới 50.000.000đồng hoặc dưới 2.000.000đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm” [3] Tính chất mức độ, hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội vi phạm pháp luật, xâm phạm tới quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội; lén lút, lợi dụng sơ hở mất cảnh giác để chiếm đoạt tài sản của bị hại thể hiện sự coi thường pháp luật cần xử lý nghiêm mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hướng xử lý:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tự nguyện giao nộp tài sản khắc phục hậu quả; sau khi phạm tội đã ra đầu thú; bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo đây là những tình tiết xem xét giảm nhẹ theo điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Xét bị cáo có nhân thân tốt, có nhiều tình tiết giảm nhẹ, có nơi cư trú rõ ràng để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù, việc cho hưởng án treo không nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự và an toàn xã hội.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hạ Long đề nghị áp dụng điều luật và mức hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ pháp luật.

[5] Về vật chứng, bồi thường dân sự: bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường, Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không nghề nghiệp, không có thu nhập ổn định nên không áp dụng.

[7] Về án phí: Bị cáo phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b, i, s khoản 1, 2 Điều 51; khoản 1, 2, 5 Điều 65 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Nguyễn Thị T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt: Nguyễn Thị T 9 (Chín) tháng tù cho hưởng án treo thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Giao bị cáo Nguyễn Thị T cho Uỷ ban nhân dân phường Tr, Tp H, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách; gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với Uỷ ban nhân dân phường Tr, Tp H, tỉnh Quảng Ninh giáo dục bị cáo. Trường hợp bị cáo thay đổi nơi cư trú thì thực hiện theo quy định của pháp luật về thi hành án hình sự. Trong thời gian thử thách, nếu bị cáo cố ý vi phạm nghĩa vụ theo quy định của Luật thi hành án hình sự 02 lần trở lên, thì Tòa án có thể quyết định buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù của bản án đã cho hưởng án treo.

Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 125 Bộ luật tố tụng hình sự: Hủy bỏ Lệnh cấm đi khỏi nơi cư trú số 128/2020/LCĐKNCT-TA ngày 15/9/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hạ Long.

Căn cứ Điều 331; Điều 333; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Bị cáo Nguyễn Thị T chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo báo quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; bị hại vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 307/2020/HS-ST ngày 28/09/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:307/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hạ Long - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 28/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về