TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH ĐỒNG NAI
BẢN ÁN 306/2019/HSPT NGÀY 21/10/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 21 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 258/2019/HSPT ngày 20 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo Nguyễn Viết T. Do có kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết T đối với Bản án hình sự sơ thẩm số: 309/2019/HSST ngày: 16/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà.
- Bị cáo có kháng cáo:
Nguyễn Viết T (tên gọi khác: T1), sinh năm 1988, tại Đồng Nai; Nơi cư trú: A2/67F, khu phố 2, phường T2, thành phố B, tỉnh Đồng Nai; Nghề nghiệp: phụ hồ; Trình độ văn hóa (học vấn): 09/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Lịch V, sinh năm 1965 và bà Tống Thị L, sinh năm 1965; gia đình có 03 anh em, bị cáo là con thứ hai; Chung sống như vợ chồng, không đăng ký kết hôn với Nguyễn Thị Lan C, sinh năm 1995, có 02 con sinh năm 2013 và 2015; Tiền án: không; Tiền sự: Ngày 31/5/2013, bị Công an thành phố Biên Hoà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” (chưa chấp hành xong hình phạt); Ngày 14/9/2015, bị Công an thành phố Biên Hoà ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, về hành vi “Trộm cắp tài sản” (chưa chấp hành xong hình phạt); Ngày 17/11/2017, bị Phòng Cảnh sát hình sự Công an tỉnh Đồng Nai ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính, về hành vi “Cố ý gây thương tích” (chưa chấp hành xong hình phạt); Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 03 tháng 4 năm 2019 theo lệnh số 30 ngày 25/3/2019, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Biên Hoà.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo tài liệu trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Nguyễn Viết T là đối tượng nghiện ma tuý nên T đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài và mua ma túy sử dụng. Vào khoảng 23 giờ 20 phút ngày 30/4/2018, Nguyễn Viết T, ngụ tại số nhà A2/67F, khu phố 2, phường T2, thành phố Biên Hoà điều khiển chiếc xe đạp của T đi ngang qua căn nhà số 244/2/18, khu phố 2, phường T2, thành phố B do anh Nguyễn Viết K làm chủ thì thấy cửa cổng mở. T dựng xe đi vào trong nhà thì phát hiện anh K đang nằm ngủ tại phòng khách nên T lén lấy cắp 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi 32GB, số Imei 869435021379306 và 01 chiếc máy tính bảng hiệu Ipad Air Wifi 3G, số Imei 358772055695854 để ở bên cạnh anh K mang về nhà cất giấu. Do chiếc điện thoại của anh K có cài mật khẩu nên T không mở máy được. Ngày 01/05/2018, T đem chiếc điện thoại di động đến cửa hàng điện thoại di động “VH mobill” tại số A3/309, khu phố 3, phường T2, thành phố B, do anh Vũ Trung H làm chủ để mở khóa thì anh H hẹn T ngày 02/05/2018 đến lấy điện thoại, trong quá trình mở khóa điện thoại, anh H phát hiện trong điện thoại có cài phần mềm báo mất trộm, anh H nghi ngờ đây là tài sản do T phạm tội mà có nên đã trình báo Công an phường T2. Đến khoảng 18 giờ 30 phút ngày 02/5/2018, khi T đến gặp anh H để lấy điện thoại thì bị Công an phường T2 đưa về trụ sờ làm việc, đồng thời về nhà T thu giữ chiếc máy tính bảng hiệu Ipad Air Wifi 3G nên Công an phường T2 lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà điều tra xử lý. Đến ngày 03/05/2019, T bị bắt để điều tra, xử lý.
Tại kết luận định giá tài sản số 166/TCKH-HĐĐG ngày 25/5/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: “01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi 32GB, số Imei 869435021379306 và 01 (một) chiếc máy tính bảng hiệu Ipad Air Wifi 3G, số Imei 358772055695854, tổng trị giá 5.195.000 đồng (Năm triệu một trăm chín mươi lăm nghìn đồng)”.
Vật chứng thu giữ gồm:
- 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi 32GB, số Imei 869435021379306 và 01 (một) chiếc máy tính bảng hiệu Ipad Air Wifi 3G, số Imei 358772055695854 đã thu hồi và trả lại cho chủ sở hữu là anh Nguyễn Viết K.
Đối với chiếc xe đạp mà T sử dụng vào việc phạm tội, nhưng T khai đã bán cho người đi đường (không rõ nhân thân, lai lịch) nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Biên Hoà không thu giữ được.
Tại bản án hình sự sơ thẩm số: 309/2019/HS-ST ngày: 16/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Biên Hoà đã căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm i, h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 103, Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;
Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 03/4/2019.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 23/7/2019, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.
Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai đã đánh giá, phát biểu quan điểm xử lý vụ án:
Qua thẩm vấn công khai tại phiên toà và các tài liệu chứng cứ trong hồ sơ tại phiên toà sơ thẩm thu thập được. Xét kháng cáo của bị cáo nhận thấy răng hành vi phạm tội của bị cáo bị cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” là đúng người, đúng tội. Mức án tuyên phạt là có căn cứ và phù hợp. Đề nghị Hội đồng xét xử giữ nguyên bản án sơ thẩm, không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tội danh: Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo Nguyễn Viết T khai nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã mô tả.
Khoảng 23 giờ ngày 20 phút ngày 30/4/2018, Nguyễn Viết T đã có hành vi trộm cắp tài sản là 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi 32GB, số Imei 869435021379306 và 01 (một) chiếc máy tính bảng hiệu Ipad Air Wifi 3G, số Imei 358772055695854, tổng trị gịá 5.195.000 đông (Năm triệu một trăm chín mươi lăm nghìn đồng) của anh Nguyễn Viết K.
Hành vi của bị cáo Nguyễn Viết T bị Tòa án cấp sơ thẩm xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, tội danh và hình phạt được quy định tại Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội.
[2] Về hình phạt và nội dung kháng nghị:
Tòa án cấp sơ thẩm đã xem xét xử phạt bị cáo Tuyên bố bị cáo Nguyễn Viết T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Nguyễn Viết T 10 (Mười) tháng tù. Thời hạn tính từ ngày 03/4/2019.
Hành vi của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, làm mất trật tự công cộng, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Cấp sơ thẩm đã xem xét đến các tình tiết giảm nhẹ như: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc thiệt hại không lớn; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải là những tình tiết giảm nhẹ quy định tại các Điểm i, h, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 và xử phạt bị cáo mức án 10 tháng tù là thoả đáng, đúng người, đúng tội và phù hợp.
Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, tuy nhiên tại cấp phúc thẩm không cung cấp thêm tình tiết đặc biệt nào mới chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của bị cáo.
[3] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Đồng Nai phù hợp với nhận định của Toà án nên được chấp nhận.
[4] Về án phí: Kháng cáo của bị cáo không được chấp nhận, do đó bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ điểm a Khoản 1 Điều 355, Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015;
1. Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Viết T, giữ nguyên bản án sơ thẩm về hình phạt.
Căn cứ Khoản 1 Điều 173; Điểm i, h, s Khoản 1 Điều 51; Điều 48 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Điều 103, Điều 136, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Toà án;
Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T 10 (Mười) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 03/4/2019.
3. Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội Bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự phúc thẩm.
4. Các Quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật.
5. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 306/2019/HSPT ngày 21/10/2019 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 306/2019/HSPT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Đồng Nai |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 21/10/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về