Bản án 305/2019/HSPT ngày 19/04/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 305/2019/HSPT NGÀY 19/04/2019 VỀ TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 19 tháng 4 năm 2019 tại Trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Hà Nội xét xử phúc thẩm công khai vụ án hình sự phúc thẩm thụ lý số 193/2019/TL. HSPT ngày 13 tháng 3 năm 2019 đối với bị cáo: Lê Thị Mến do có kháng cáo của bị cáo đối với bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HSST ngày 31/01/2019 của Tòa án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

- Bị cáo có kháng cáo:

Lê Thị M (tên gọi khác là Mít), sinh ngày 30/6/1996 tại tỉnh Hải Dương; Giới tính: nữ; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở:, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương; Nghề nghiệp: không; Trình độ văn hoá: 12/12; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: kinh; Tôn giáo: không; Con ông Lê Văn Qu và bà Nguyễn Thị D; Danh chỉ bản số 000000413, lập ngày 29/4/2018 tại Công an quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội; Tiền án tiền sự: không; Bắt tạm giam ngày 27/4/2018; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Luật sư Nguyễn Tuấn Dũng - Công ty TNHH luật Hòa Dũng; Có mặt - Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không kháng cáo bản án được triệu tập đến phiên toà: Anh Phan Văn D, sinh năm 1990; Hộ khẩu thường trú: huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; Chỗ ở: Hoàng Mai, Hà Nội; Có mặt.

- Ngoài ra, trong bản án sơ thẩm còn có người tham gia tố tụng là bị hại không kháng cáo bản án sơ thẩm.

- Viện kiểm sát không kháng nghị bản án sơ thẩm.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Lê Thị M có quan hệ họ hàng với chị Phan Thị L. Chị L là bác dâu của Mến. Khoảng tháng 9/2016 Mến lên Hà Nội ở nhờ nhà chị L với mục đích để xin việc làm, trong khi chờ tìm việc Mến có phụ giúp chị L bán hàng nhựa Tuple Ware trên mạng. Quá trình làm việc cho chị L, Mến được chị L tin tưởng, nên Mến nảy sinh ý định tạo ra các thông tin gian dối không có thực nhằm mục đích để chị L tin tưởng cho vay tiền, sau đó chiếm đoạt. Mến nói dối với chị L có quen biết An là khách đến mua hàng, làm việc tại Tòa án nhân dân quận Cầu Giấy, quê ở Hải Dương, lần nào đến mua hàng cũng trả thêm tiền, mua hoa quả cho Mến vì muốn tìm hiểu Mến (nhưng thực chất là Mến mua hoa quả), chị L tưởng thật nên động viên Mến cho An cơ hội yêu nhau. Sau đó Mến dựng lên câu chuyện kể với chị L là Mến có người bạn nữ học cùng cấp ba tên là Uyên, có người yêu tên là Hiếu; An với Hiếu là bạn thân của nhau, do Uyên thích An nên khi biết Mến và An yêu nhau Uyên đã đố kỵ với mến, Uyên nói với Mến là Uyên có thai với An và Uyên đã đến Tòa án nhân dân quạn Cầu Giấy làm ầm ĩ sự việc lên để cho An xấu hổ. Mến hỏi chị L sự việc như thế thì giải quyết như thế nào thì chị L bảo Mến nói với An đưa Uyên đi xét nghiệm ADN. Ngoài ra Mến còn dựng chuyện kể với chị L là An có một người lãnh đạo ở Tòa án quận Cầu Giấy tên là Bình là người không tốt, hám lợi, lợi dụng chức quyền để kiếm tiền.

Khong ngày 25/10/2016, chị L nói với Mến ngày 30/10/2016 cơ sở mở khai trương gian hàng bán đồ nhựa Tuple Ware tại Royal City, Thượng Đình, Thanh Xuân, Hà Nội và bảo Mến mời An đến tham dự. Mến lên mạng xã hội Zalo tìm và kết bạn với một nam thanh niên (không rõ nick Zalo và nhân thân). Mến giới thiệu tên là Linh và thỏa thuận với nam thanh niên sáng ngày 30/10/2016 đến dự khai trương gian hàng của chị L, nếu có ai hỏi thì bảo tên là An, xong việc thì Mến trả tiền 300.000đồng. Đến ngày 30/102016, nam thanh niên đến Royal City cùng Mến phụ giúp chị L khai trương gian hàng, sau đó Mến trả cho nam thanh niên số tiền 300.000 đồng tại tầng hầm của tào nhà Royal City. Khoảng 17h00 ngày 30/10/2106, Mến nhắn tin Zalo cho chị L nói An vay 7.000.000 đồng để đưa Uyên đi xét nghiệm ADN và An không có tiền, chị L tưởng thật nên đồng ý và chuyển số tiền 7.000.000 đồng vào tài khoản số 0021000383486 của Phan Văn Duy tại ngân hàng Vietcombank (trước đó Mến và Duy quen nhau qua mạng xã hội Zalo nên Mến đã mượn thẻ ATM của Duy để chị L chuyển tiền vì Mến không có tài khoản ngân hàng), số tiền trên Mến đã rút và chi tiêu cá nhân hết. Khoảng ngày 02/11/2016, Mến nhắn tin qua Zalo cho chị L biết là đã có kết quả xét nghiệm ADN, cái thai trong bụng Uyên không phải là của An mà là của Bình (lãnh đạo của An ở Tòa án quận Cầu Giấy). Sau đó Mến khởi tạo nick Zalo tên An Béo (mạo danh là An) và trực tiếp nhắn tin cho chị Lượng nói buồn chán và bị vu khống nên đi làm từ thiện ở Quang Bình một thời gian cho khuây khỏa. An nói là sẽ khởi kiện Uyên, Bình vu khống cái thai trong bụng Uyên là của An. Mục đích Mến nhắn tin cho chị L tin tưởng An là người tốt. Sau đó, Mến sử dụng điện thoại Nokia số điện thoại 0988937187 mạo danh là Duy nhắn tin cho chị L nói là bạn An, làm việc tại Công an quận Cầu Giấy và muốn giúp An khởi kiện Uyên, Bình về tội vu khống An nhưng phải thông qua ông Phú là sếp của Duy mới giải quyết được, vì ông Phú là người có tiền mới giúp được, nếu khi nào ông Phú nhắn tin cho Duy yêu cầu đưa tiền thì Duy sẽ nhắn tin cho chị L để chị L chuyển tiền vào tài khoản của Duy, Oanh, sau đó Mến rút tiền chi tiêu .

Bằng thủ đoạn gian dối dựng lên câu chuyện và các nhân vật Uyên, Hiếu, Bình, Phú không có thật và mạo danh Duy, An, Nam (là những người Mến quen biết qua mạng Zalo) để nhắn tin cho chị L tin thật và chuyển tiền qua tài khoản trực tiếp cho Mến. Từ tháng 10/2016 đến tháng 2/8/2017, Mến đã lừa đảo chiếm đoạt nhiều lần của chị L với số tiền 327.000.000 (ba trăm hai mươi bảy triệu đồng), cụ thể như sau:

Từ ngày 30/10/2016 đến 21/11/2016 chị L đã chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng số 0021000383486 của Phạm Văn Duy, nhưng Mến là người cầm thẻ và nhận tiền, tổng số tiền là 43.700.000đồng Từ ngày 21/2/2017 đến ngày 27/7/2017 chị L đã 13 lần chuyển tiền vào tài khoản ngân hàng số 03101000321032 của Nam, nhưng Mến là người cầm thẻ và nhận tiền, tổng số tiền là 93.300.000đồng.

Ngày 15/12/2016 chị L chuyển tiền vào ngân hàng tài khoản số 0201000662846 của Oanh, Mến là người cầm thẻ và nhận tiền, số tiền là 30.000.000đồng Từ ngày 30/11/2016 đến ngày 29/4/2017 Mến đã 5 lần cầm thẻ ATM ngân hàng Vietcombank của chị L đi rút tổng số tiền là 52.900.000đồng.

Từ ngày 10/7/2017 đến 13/7/2017 Mến đã 3 lần cầm thẻ ATM ngân hàng Agribank của chị L đi rút tổng số tiền là 14.375.000đồng.

Từ ngày 17/4/2017 đến ngày 22/7/2017 qua tin nhắn Mến nhắn tin cho chị L, chị L đã nhiều lần đưa tiền mặt cho Mến tổng số tiền 93.000.000đồng, Cụ thể: Ngày 01/7/2017: 3.000.000đồng; ngày 15/7/2017: 30.000.000đồng, ngày 17/4 đến ngày 19/4/2017: 24.000.000 đồng, ngày 21/7/2017: 3.000.000 đồng, ngày 22/7/2017: 20.000.000đồng và một vài lần chị L (không nhớ ngày tháng đưa cho Mến) 13.000.000đồng.

Tng số tiền Lê Thị M lừa đảo chiếm đoạt của chị L là 327.000.000đồng. Số tiền này Mến ăn tiêu cá nhân hết.

Tại cơ quan công an Lê Thị M khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên, lời khai của Mến phù hợp với lời khai của bị hại là chị Lê Thị L phù hợp với lời khai của Phan Văn Duy và cả sao kê chuyển và rút tiền tại các số tài khoản của các ngân hàng.

Ngày 21/8/2018 do nghi ngờ Mến lừa đảo chiếm đoạt tài sản của mình. Chị L nói chuyện với Mến, Mến thừa nhận việc gian dối tạo dựng nên những câu chuyện và những người không có thật, đồng thời mạo danh người khác để nhắn tin qua mạng xã hội Zalo với chị L, lợi dụng sự tin tưởng của chị để lừa đảo chiếm đoạt số tiền 327.257.000đồng.

Ngày 21/8/2017, Chị L đến Công an quận Hoàng Mai trình báo về sự việc và yêu cầu Mến bồi thường cho chị số tiền trên.

Tại cơ quan điều tra Công an quận Hoàng Mai: Phan Văn Duy khai: Duy quen mến qua mạng xã hội Zalo, quá trình quen biết Mến cho Duy vay số tiền 100.000.000 đồng và Duy đã trả hết số tiền vay cho Mến. Duy đã cho Mến mượn tài khoản 0021000383486 khoảng 2 tuần để sử dụng. Ngoài ra Duy còn mượn tài khoản 0201000662846 của Oanh là người quen của Duy đưa cho Mến sử dụng. Duy không biết Mến mượn tài khoản sử dụng vào mục đích vi phạm pháp luật, không được hưởng lời gì từ việc cho Mến mượn tài khoản, nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai không xử lý.

Đi với đối tượng tên Nam, Oanh cho Mến mượn tài khoản và đối tượng An Mến thuê đến dự khai trương cửa hàng nhựa của chị L tại Roya City hiện không xác định được nhân thân, lai lịch nên cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Hoàng Mai không có căn cứ để xử lý.

Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 12/02/2019, bị cáo Lê Thị M có đơn kháng cáo bản án vì bị cáo cho rằng số tiền bị cáo chiếm đoạt đưa cho Phan Văn Duy 200.000.000 đồng để cùng sử dụng.

Tại phiên toà phúc thẩm:

- Bị cáo Lê Thị M thay đổi nội dung kháng cáo trong đơn kháng cáo ngày 12/02/2019; Bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội của mình như tại cơ quan điều tra và cấp sơ thẩm; Không có ý kiến gì về tội danh, điều khoản luật áp dụng mà cấp sơ thẩm đã tuyên và xin cấp phúc thẩm giảm nhẹ hình phạt.

- Người có quyền, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: anh Phan Văn Duy có quan điểm không biết, không vay mượn, không sử dụng tiền bị cáo chiếm đoạt của bị hại.

- Luật sư bào chữa cho bị cáo có quan điểm: Không có ý kiến gì về tội danh, điều khoản luật áp dụng mà cấp sơ thẩm đã tuyên; Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo vì tại phiên toà phúc thẩm bị cáo đã khai báo thành khẩn và ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Nội phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án:

Về hình thức: Bị cáo nộp đơn kháng cáo trong thời hạn Luật định nên đề nghị Hội đồng xét xử cấp phúc thẩm chấp nhận giải quyết yêu cầu kháng cáo của các bị cáo theo trình tự phúc thẩm.

Về nội dung: Về nội dung kháng cáo của bị cáo theo đơn kháng cáo đề ngày 12/02/2019 bị cáo rút và thay bằng nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Sau khi xem xét thấy tại phiên toà phúc thẩm bị cáo không đưa ra được tình tiết mới để xin giảm nhẹ hình phạt nên đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên về tội danh, điều khoản luật áp dụng và hình phạt. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định như sau:

[1] Về hình thức:

Đơn kháng cáo của bị cáo Lê Thị M nộp trong thời hạn Luật định nên hợp lệ, được chấp nhận xem xét giải quyết yêu cầu kháng cáo theo thủ tục phúc thẩm.

[2] Về nội dung:

Căn cứ lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, tại phiên toà sơ thẩm, cũng như tại phiên toà phúc thẩm và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở kết luận:

Lê Thị M có quan hệ họ hàng với chị Phan Thị L (chị L là bác dâu của Mến) ở tại Tổ 1A phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội. Tháng 9/2016 Mến lên Hà Nội ở nhờ nhà chị L với mục đích để xin việc làm. Trong khi chờ tìm việc, Mến có phụ giúp chị L bán hàng nhựa Tuple Ware trên mạng. Quá trình làm việc cho chị L, Mến được chị L tin tưởng nên Mến đã nảy sinh ý định tạo ra các thông tin gian dối không có thực như tự nghĩ và kể cho chị L những nhân vật là bạn của Mến gặp khó khăn, đề nghị chị L giúp đỡ bằng cách cho Mến vay tiền giúp đỡ bạn nhằm mục đích để chị L thông cảm cho Mến vay tiền, sau đó chiếm đoạt. Với thủ đoạn trên, từ tháng 10/2016 đến ngày 02/8/2017 Mến đã chiếm đoạt của chị L 327.000.000 đồng và đã chi tiêu cá nhân hết.

Với hành vi trên, Toà án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Lê Thị M về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 174 Bộ luật hình sự là có căn cứ và đúng pháp luật.

Xét yêu cầu kháng cáo của các bị cáo, nhận thấy: Hành vi của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ. Do vậy, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

Nhân thân bị cáo chưa có tiền án tiền sự.

Khi quyết định hình phạt Toà án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất, mức độ hành vi phạm tội, xem xét nhân thân, áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nên đã áp dụng hình phạt tù có thời hạn đối với bị cáo là phù hợp. Bị cáo phạm tội nhiều lần là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, cân nhắc tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của bị cáo; Bị cáo phạm tội nhiều lần, nhưng lần đầu bị đưa ra xét xử; Tại phiên toà phúc thẩm bị cáo: Khai báo thành khẩn; Tỏ rõ thái độ Ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự nên Hội đồng xét xử phúc thẩm quyết định sủa bản án hình sự sơ thẩm về phần hình sự; Giảm một phần hình phạt cho bị cáo.

[3]Về án phí: Bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm theo quy định.

[4]Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 355; điểm c khoản 1 Điều 357 Bộ luật tố tụng hình sự.

I. Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị cáo Lê Thị M.

II. Sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm số 40/2019/HSST ngày 31/01/2019 của Toà án nhân dân quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội về quyết định hình sự; Giảm hình phạt cho bị cáo.

Tuyên bố: Lê Thị M phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Áp dụng: điểm a khoản 3 Điều 174; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự Xử phạt: Lê Thị M 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27/4/2018.

III. Về án phí: Áp dụng Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án bị cáo không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm.

IV. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

V. Bản án phúc thẩm có hiệu lực kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

568
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 305/2019/HSPT ngày 19/04/2019 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:305/2019/HSPT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Nội
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 19/04/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về