Bản án 304/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TÌNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 304/2020/HS-ST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 12 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 311/2020/TLST-HS ngày 20 tháng 11 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 339/2020/QĐXXST-HS ngày 15/12/2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Thanh T, sinh năm 1998, tại Campuchia; Nơi DKHKTT: số A đường B, tổ C, khu phố D, phường HT, thành phố T, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 0/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; con ông Trần Lê Xuân T và bà Trần Thị Kim D; Vợ tên Nguyễn Thị Minh T, có 01 con sinh năm 2018.

Tiền án: Không;

Tiền sự: Ngày 05/12/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố T ra Quyết định số 131/TA về việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc với thời hạn 15 tháng. Ngày 30/8/2018, Tòa án nhân dân huyện Phú Giáo ra Quyết định số 520/2018/QĐ-TA về việc miễn chấp hành thời gian áp dụng biện pháp xử lý hành chính còn lại;

Nhân thân: Năm 2016 bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản. Ngày 23/9/2016 chấp hành xong hình phạt tù và được trả tự do.

Bị cáo bị bắt tạm giữ ngày 10/8/2020 và tạm giam đến nay; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Ông Nguyễn Thanh Đ, sinh năm 1996; địa chỉ: số A, tổ B, khu phố C, phường PC, thành phố T, tình Bình Dương; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt nhu sau:

Khoảng 15 giờ 00 ngày 10/8/2020, Trần Thanh T nảy sinh ý định mua ma túy về sử dụng nên T điều khiển xe mô tô đến khu vực chợ Đường (gần cầu Phú Long) thuộc Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh để tìm một người đàn ông tên K (chưa xác định rõ nhân thân, lai lịch) hỏi mua ma túy với số tiền 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng). Người đàn ông này đồng ý bán và đưa cho T01 (một) túi nylon miệng kéo dính hình chữ nhật, kích thước khoảng 02 x 04cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng. Sau khi mua ma túy xong, T cất vào trong túi quần phía trước bên trái rồi điều khiển xe mô tô biển số 61G1-707.78 chạy về phòng trọ tại phường CN, thành phố T, tỉnh Bình Dương. Đến khoảng 19 giờ ngày 10/8/2020, khi T điều khiển xe mô tô biển số 61G1- 707.78 chạy trên một đường hẻm thuộc tổ 59, khu phố 7, phường CN, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì bị lực lượng tuần tra thuộc Công an phường Chánh Nghĩa phát hiện T có những đặc điểm giống đối tượng liên quan đến vụ việc trộm cắp tài sản xảy ra trên địa bàn thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương nên mời T về trụ sở làm việc. Tại đây, T lấy ra từ túi quần phía trước bên trái 01 (một) túi nylon miệng kéo dính hình chữ nhật, kích thước khoảng 02 x 04cm bên trong có chứa chất tinh thể màu trắng và T khai nhận là ma túy nên lực lượng Công an phường Chánh Nghĩa lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Thanh T và thu giữ vật chứng, gồm: 01 (một) túi nylon miệng kéo dính hình chữ nhật, kích thước khoảng 02 x 04cm bên trong chứa chất tinh thể màu trắng được niêm phong theo quy định; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 61G1-707.78.

Căn cứ Kết luận giám định số 511/MT-PC09 ngày 18/8/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bình Dương, kết luận: tinh thể màu trắng bên trong 01 (một) túi nylon miệng kéo dính, được niêm phong trong bì thư có chữ ký người bị bắt Trần Thanh T, cán bộ niêm phong Nguyễn Thành Trung và hình dấu đỏ của Công an phường Chánh Nghĩa, thành phố T, tỉnh Bình Dương là ma túy, loại Methamphetamine, có khối lượng: 0,5259 gam. Khối lượng hoàn lại sau giám định là 0,4423 gam.

Đối với người đàn ông tên K có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Trần Thanh T, quá trình điều tra chưa xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú của người này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục điều tra, xác minh, xử lý sau.

Đối với xe mô tô nhãn hiệu Yamaha Exciter, biển số 61G1-707.78, số khung: RLCE1S9409Y040279, số máy: 1S94040281 thu giữ của Trần Thanh T, quá trình điều tra xác định: Xe mô tô trên do Nguyễn Thế V, sinh năm 1995, cư trú tại khu phố A, phường MP, thị xã B, tỉnh Bình Dương đứng tên trên giấy chứng nhận đăng ký xe mô tô. Năm 2020, ông V đã bán xe mô tô trên cho ông Nguyễn Thanh Đ (là chú của T), nhưng chưa làm hợp đồng mua bán và đăng ký chủ sở hữu mới. Ngày 11/8/2020, V làm hợp đồng ủy quyền cho ông Lương Quốc S, sinh năm 1998; cư trú tại tổ A, ấp B, xã T, huyện D, tỉnh Bình Dương đại diện ký kết hợp đồng mua bán xe mô tô với ông Đ. Qua làm việc, ông Đ khai nhận sau khi mua xe mô tô trên thì cho T mượn xe làm phương tiện di chuyển hàng ngày, việc T sử dụng xe để thực hiện hành vi phạm tội ông Đ không biết. Ngày 21/10/2020, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố T ra Quyết định xử lý vật chứng số 13 giao trả xe mô tô biển số 61G1-707.78 cho ông Đ. Hiện tại, ông Đ không có yêu cầu gì đối với Trần Thanh T.

Cáo trạng số 321/CT-VKS-HS ngày 16/11/2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo Trần Thanh T về tội “Tàng trữ hái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T trong phần tranh luận, giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, xử phạt bị cáo mức hình phạt từ 01 năm 06 tháng đến 01 năm 09 tháng tù.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư bên trong có chứa ma túy, loại Methamphetamine, trọng lượng sau giám định 0,4423 gam.

Tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến tranh luận. Trong lời nói sau cùng, bị cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, Kiểm sát viên trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, không ai có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, quyết định, hành vi tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là phù hợp với quy định của pháp luật.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Trần Thanh T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Lời khai của bị cáo phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở kết luận: Khoảng 19 giờ 00 ngày 10/8/2020, tại khu vực phường CN, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bị cáo Trần Thanh T bị bắt quả tang khi có hành vi tàng trữ trái phép 0,5259 gam Methamphetamine nhằm mục đích sử dụng, đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Do vậy, Cáo hạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo theo tội danh và điều khoản như hên là có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ độc quyền của Nhà nước về quản lý các chất ma túy, gây tác hại lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, xâm phạm trật tự an toàn xã hội. Ma túy không chỉ gây tác hại đến sức khỏe, nhân cách con người, mà còn cản trở sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Ma túy cũng chính là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Bị cáo biết tác hại của ma túy và biết hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật. Nhưng vì nhu cầu của bản thân nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần xử phạt bị cáo với mức hình phạt nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm giáo dục bị cáo trở thành công dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Đây là tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.

[6] Về nhân thân: Bị cáo là người có nhân thân xấu, đã từng bị Tòa án nhân dân thành phố T xử phạt về tội Trộm cắp tài sản và là người nghiện ma túy, bị Tòa án nhân dân thành phố T áp dụng biện pháp xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc.

Căn cứ vào nhân thân cũng như các tình tiết giảm nhẹ, xét mức hình phạt mà đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp.

[7] Về xử lý vật chứng: Đối với khối lượng ma túy còn lại sau giám định được niêm phong trong 01 (một) bì thư có chữ ký người bị bắt Trần Thanh T, cán bộ niêm phong Nguyễn Thành T và hình dấu đỏ của Công an phường CN, thành phố T, tỉnh Bình Dương là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu, tiêu hủy quy định tại điểm c khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[8] Đối với người nam tên K có hành vi bán trái phép chất ma túy cho Trần Thanh T, quá trình điều tra do chưa xác định rõ họ tên và địa chỉ cư trú nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thủ Dầu Một sẽ tiếp tục xác minh, xử lý sau là phù hợp.

[9] Án phí sơ thẩm: Bị cáo phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38, 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017; các Điều 106, 136, 260, 331, 333 Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên bố bị cáo Trần Thanh T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1/ Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Trần Thanh T01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 10/8/2020.

2/ Về xử lý vật chứng: Tịch thu tiêu hủy 01 (một) bì thư niêm phong có chữ ký người bị bắt Trần Thanh T, cán bộ niêm phong Nguyễn Thành T và hình dấu đỏ của Công an phường CN, thành phố T, tỉnh Bình Dương, bên trong có 01 (một) túi nylon kéo dính chứa tinh thể màu trắng là Methamphetamine, trọng lượng sau giám định 0,4423 gam. (Theo Kết luận giám định số 511/MT-PC09 ngày 18/8/2020).

(Thể hiện tại biên bản giao nhận vật chứng số 027.21 ngày 10/11/2020 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố T và Công an thành phố T).

3/ Về án phí: Buộc bị cáo nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 304/2020/HS-ST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:304/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về