Bản án 304/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ T, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 304/2020/HS-ST NGÀY 10/11/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Vào ngày 10 tháng 11 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương, Tòa án nhân dân thành phố T xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 299/2020/TLST-HS ngày 14 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 312/2020/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2020 đối với bị cáo:

Nguyễn Văn T, sinh năm 1985 tại tỉnh H; nơi cư trú: Thôn C, xã A (nay là thị trấn B), huyện L, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn C, sinh năm 1958 và bà Bùi Thị T (đã chết); vợ Nguyễn Thị N, sinh năm 1989, có một người con sinh năm 2007.

Tiền án: Không.

Tiền sự: Ngày 23/12/2019, bị cáo bị Công an phường A, thành phố T, tỉnh Bình Dương xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1729/QĐ-XPVPHC ngày 23/12/2019 với số tiền 1.500.000 đồng, đã đóng phạt ngày 07/02/2020.

Bị cáo bị bắt, tạm giữ, tạm giam từ ngày 27/7/2020 đến nay.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

Bị hại: Bà Nguyễn Thị L, sinh năm 1992; nơi cư trú: Ấp T, xã N, huyện P, tỉnh A; tạm trú: khu phố A, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương, có yêu cầu giải quyết vắng mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

Ông Ngô Duy D, sinh năm 1985; nơi cư trú: khu phố T, phường B, thành phố D, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

2.4. Người làm chứng:

- Bà Lê Thị T. Vắng mặt.

- Ông Nguyễn Chung B. vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn T có 01 tiền sự vào ngày 23/12/2019 bị Công an phường An Phú, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1729/QĐ-XPVPHC ngày 23/12/2019 với số tiền 1.500.000 đồng, đóng phạt ngày 07/02/2020. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/7/2020, T điều khiển xe mô tô biển số 61D1-897.51, nhãn hiệu Suzuki màu xanh trắng đỏ đi đến đường D11, KDC V, khu phố A, phường P, thành phố T, tỉnh Bình Dương thì phát hiện xe mô tô biển số 61C 1-465.21 của bà Nguyễn Thị L đang dựng ở trước chợ và trong hộc bên trái phía trước của xe mô tô có để 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng. T dừng xe lại và đi tới dùng tay phải nhanh chóng lấy trộm chiếc điện thoại rồi lên xe tẩu thoát. Lúc này, người dân xung quanh phát hiện và truy hô “Trộm” đuổi theo T được khoảng 10 mét T vứt điện thoại lại bỏ chạy được một đoạn thì bị bắt giữ.

Vật chứng thu giữ: 01 xe mô tô biển số 61D 1-897.51; 01 điện thoại di động hiệu Samsung galaxy J5 màu vàng.

Theo Biên bản định giá tài sản và kết luận định giá tài sản ngày 29/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong Tố tụng hình sự thành phố Thuận An kết luận kết luận: 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng trị giá 900.000 đồng.

Bản Cáo trạng số 308/CT-VKS-TA ngày 13 tháng 10 năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã truy tố bị cáo Nguyễn Văn T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Tại phiên tòa:

Kiểm sát viên giữ quyền công tố trình bày lời luận tội trong đó có nội dung vẫn giữ nguyên quyết định đã truy tố, đánh giá tính chất mức độ, hậu quả hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, xác định:

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc T hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên đề nghị Hội đồng xét xử cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Nguyễn Văn T mức hình phạt từ 06 (sáu) tháng đến 09 (chín) tháng tù.

Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị L, Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại tài sản cho bà Lượm.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Axelo màu xanh trắng đỏ, biển số 61D1- 897.51 đề nghị Hội đồng xét xử giao lại cho Cơ quan điều tra Công an thành phố T tiếp tục xác minh xử lý theo quy định.

Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên không đặt ra.

Bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội giống nội dung Viện kiểm sát truy tố. Bị cáo ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt để được sớm trở về với gia đình, làm người công dân có ích cho xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Trong các giai đoạn tố tụng từ khi khởi tố vụ án cho đến khi kết thúc việc truy tố, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, cán bộ điều tra, Kiểm sát viên đều thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không khiếu nại, tố cáo về các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

[2] Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Văn T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T, tỉnh Bình Dương đã truy tố trước tòa. Lời nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng Hội đồng xét xử xét thấy có đủ cơ sở kết luận:

Bị cáo Nguyễn Văn T có 01 tiền sự vào ngày 23/12/2019 bị Công an phường P, thành phố T xử phạt vi phạm hành chính về hành vi Trộm cắp tài sản theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 1729/QĐ-XPVPHC ngày 23/12/2019 với số tiền 1.500.000 đồng, đóng phạt ngày 07/02/2020. Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 27/7/2020, đường D11, KDC V, khu phố A, phường P, thành phố T, bị cáo Nguyễn Văn T có hành vi lén lút chiếm đoạt 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng trị giá 900.000 đồng của bị hại bà Nguyễn Thị L.

Mặc dù giá trị tài sản bị cáo chiếm đoạt dưới mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự, tuy nhiên bị cáo đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản vào ngày 23/12/2019, đóng tiền phạt vào ngày 07/02/2020, chưa hết thời gian được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính bị cáo lại thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản như nêu trên. Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017). Do đó, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố T truy tố bị cáo T về tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 173 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) là có căn cứ, đứng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu về tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự, trị an tại địa phương. Bị cáo là người có năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật hình sự và sẽ bị trừng trị nhưng vì động cơ tham lam, tư lợi nên bị cáo đã cố ý thực hiện. Do vậy, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhằm đảm bảo tính giáo dục riêng cho bị cáo và phòng ngừa chung cho xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc T hợp ít nghiêm trọng; trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ quy định tại Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

[6] Hình phạt theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát có căn cứ, đúng pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[7] Về xử lý vật chứng:

- Đối với 01 điện thoại di động hiệu Samsung Galaxy J5 màu vàng, quá trình điều tra xác định đây là tài sản hợp pháp của bà Nguyễn Thị L, Cơ quan điều tra đã ra quyết định trả lại tài sản cho bà L là đúng quy định.

- Đối với xe mô tô nhãn hiệu Suzuki Axelo màu xanh trắng đỏ, biển số 61D1- 897.51, bị cáo Nguyễn Văn T khai nhận mua lại xe máy trên từ Cửa hàng mua bán xe máy cũ không rõ địa chỉ, không làm thủ tục mua bán. Quá trình xác minh, xe mô tô biển số 61D1-897.51 do ông Ngô Duy D đứng tên trong giấy chứng nhận đăng ký xe, ông Dương khai có mua và sử dụng xe mô tô biển số 61D1-897.51 vào tháng 05/2016 và đã bán lại vào năm 2018 cho một người không rõ lai lịch và không làm thủ tục mua bán, ông D không có yêu cầu gì đối với xe mô tô trên. Cơ quan điều tra đã ra quyết định trưng cầu giám định số khung, số máy của chiếc xe trên thì có kết quả số khung, số máy không đổi. Đồng thời, Cơ quan điều tra đã ra thông báo truy tìm chủ sở hữu đối với xe mô tô trên nhưng hiện chưa có ai đến nhận, vì vậy cần tiếp tục giao xe mô tô biển số 61D1-897.51 cho Cơ quan điều tra Công an thành phố T xác minh xử lý theo quy định.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:

- Khoản 1 Điều 173; Điểm i, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51; Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Khoản 2 Điều 106; Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015;

- Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về trách nhiệm hình sự: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 27 tháng 7 năm 2020.

2. Về xử lý vật chứng:

Giao 01 (một) xe mô tô 02 bánh, nhãn hiệu Suzuki, số loại Axelo 125RR, xy lanh 124 cm3, biển kiểm soát 61D 1-897.51, số khung RLSBF4510G0134192, số máy F4CB - 134101 cho Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương để xử lý theo quy định.

(Theo biên bản về việc giao nhận vật chứng, tài sản ngày 12/10/2020 giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố T, tỉnh Bình Dương và Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, tỉnh Bình Dương).

3. Về án phí: Bị cáo Nguyễn Văn T phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo:

Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

265
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 304/2020/HS-ST ngày 10/11/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:304/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thủ Dầu Một - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về