Bản án 30/2021/HSST ngày 27/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B Đ – TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 30/2021/HSST NGÀY 27/05/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 27 tháng 5 năm 2021, tại Tòa án nhân dân huyện B Đ, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 28/2021/HSST ngày 27 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 30/2021/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 5 năm 2021 đối với bị cáo:

Lê Văn Ph, sinh năm 1989; tên gọi khác: Ph T1; nơi cư trú: ấp T Ph, xã T Th, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước; Nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 06/12; Giới tính Nam; Dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; con ông Lê Văn T2 và bà Nguyễn Thị L; Vợ (đã ly hôn) tên Nguyễn Thị Cẩm T3; Bị cáo có 02 (hai) con, nhỏ nhất sinh năm 2014, lớn nhất sinh năm 2014; Tiền án, tiền sự: Không;

Về nhân thân: Ngày 17/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện B Đ, tỉnh Bình Phước ra Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc (đã chấp hành xong).

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 03/02/2021 cho đến nay (có mặt).

Người bị hại:

- Bà: Hoàng Thị Ngh, sinh năm: 1993; Địa chỉ: ấp T Ph, xã T T, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).

- Ông: Đinh Văn D, sinh năm: 1988; Địa chỉ: ấp T Ngh, xã T T, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).

- Ông: Lý Hoàng D1, sinh năm: 1986; Địa chỉ: ấp T Đ, xã T Th, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Lê Văn T2, sinh năm: 1960; Địa chỉ: ấp T Ph, xã T Th, huyện B Đ, tỉnh Bình Phước (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 01/02/2021, Lê Văn Ph điều khiển xe mô tô không biển kiểm soát, hiệu Heasun, màu tím đen đi từ nhà ở ấp T Ph, xã T Th, huyện B Đ đến khu vực ấp T Ph, xã T T, huyện B Đ với mục đích tìm kiếm tài sản của người dân để lấy trộm. Khi Ph đi đến nhà bà Hoàng Thị Ngh thì thấy nhà bà Ngh đóng cửa, thấy không có người ở nhà, nên Ph điều khiển xe đến dựng sát bên hông nhà rồi nhìn qua vách gỗ thì thấy bên trong nhà có tivi ở và một số tài sản khác, lúc này Ph dùng kìm cộng lực mang theo sẵn, cắt đứt sợi dây xích dùng khóa cửa rồi đi vào trong nhà để lấy trộm tài sản. Ph tháo gỡ chiếc ti vi hiệu Asanzo loại 32 inch treo trên tường, lấy 01 đầu thu sóng truyền hình hiệu Humas, 02 chiếc loa rời hiệu Loyful rồi bỏ số tài sản này vào một bao tải để lên xe mô tô và chở về nhà. Trên đường đi ngang qua vườn tiêu nhà anh Đinh Văn D sinh năm: 1988 ở ấp T Ngh, xã T T, huyện B Đ, thấy có chòi lợp tôn trong vườn nên Ph đi vào trong chòi để tìm kiếm tài sản để lấy trộm nhưng không có tài sản, Ph tiếp tục đi bộ xuống phía dưới vườn tiêu thì phát hiện có máy dầu dùng đề tưới tiêu bên cạnh máy có 02 can nhựa đựng dầu loại 10 lít và 30 lít bên trong 02 can có chứa 18 lít dầu loại DO, Ph đổ dầu từ can nhựa nhỏ sang can nhựa lớn rồi lấy can đựng dầu nhựa lớn mang lên xe chở đi về.Trên đường đi khi Ph điều khiển xe đi ngang qua lô cao su của anh Lý Hoàng D1 sinh năm: 1986 ở ấp T Đ, xã T Th, huyện B Đ, thấy cuối lô cao su có một chòi gỗ nên Ph nảy sinh ý định tìm tài sản để lấy trộm tiếp, thấy bên trong chòi có để máy dầu và 01 can nhựa đựng 13 lít dầu loại DO thì Ph đi vào chòi lấy can nhựa này để lên xe rồi tiếp tục điều khiển xe cùng tài sản lấy trộm đi về nhà. Khi Ph điều khiển xe mô tô và số tài sản lấy trộm được đi đến khu vực ấp T Ph, xã T Th, huyện B Đ thì bị tổ công tác của Công an xã T Th, tuần tra phát hiện.

Tại bản cáo trạng số: 30/CTr-VKS ngày 27/4/2021 của VKSND huyện B Đ truy tố bị cáo Lê Văn Ph về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa:

- Đại diện VKSND huyện B Đ giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử tuyên:

+ Về tội danh và mức hình phạt: Tuyên bố bị cáo Lê Văn Ph phạm tội “Trộm cắp tài sản” + Áp dụng: Khoản 1 Điều 173; các điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015. Đề xuất mức hình phạt đối với bị cáo từ 07 (bảy) đến 10 (mười) tháng tù.

Bị cáo không tham gia tranh luận và xin HĐXX giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa, kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tại liệu, chứng cứ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Các hoạt động tố tụng, các Quyết định của cơ quan điều tra công an huyện B Đ, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện B Đ, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, bị cáo, bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không có khiếu nại về hành vi, Quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Các hành vi, Quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng đã thực hiện hợp pháp.

[2]. Về nội dung:

Là đối tượng nghiện ma túy muốn có tiền tiêu xài cá nhân mà không phải lao động Lê Văn Ph lợi dụng sự sơ hở của chủ sở hữu tài sản vào khoảng 13 giờ 00 phút ngày 01/02/2021 đã có hành vi lén lút vào nhà bà Hoàng Thị Ngh chiếm đoạt 01(một) chiếc ti vi hiệu Asanzo loại 32 inch treo trên tường, lấy 01 đầu thu sóng truyền hình hiệu Humas, 02 chiếc loa rời hiệu Loyful rồi bỏ số tài sản này vào một bao tải để lên xe mô tô và chở về nhà. Trên đường đi ngang qua vườn tiêu nhà anh Đinh Văn D; Địa chỉ: Ấp T Ngh, xã T T, huyện B Đ, thấy có chòi lợp tôn trong vườn nên Ph đi vào trong chòi tiếp tục chiếm đoạt 02 can nhựa đựng dầu loại 10 lít và 30 lít bên trong 02 can có chứa 18 lít dầu loại DO, Ph đổ dầu từ can nhựa nhỏ sang can nhựa lớn rồi lấy can đựng dầu nhựa lớn mang lên xe chở đi về.Trên đường đi khi Ph điều khiển xe đi ngang qua lô cao su của anh Lý Hoàng D1; Địa chỉ: Ấp T Đ, xã T Th, huyện B Đ, thấy cuối lô cao su có một chòi gỗ nên Ph lại tiếp tục nảy sinh ý định tìm tài sản để lấy trộm tiếp, thấy bên trong chòi có để máy dầu và 01 can nhựa đựng 13 lít dầu loại DO thì Ph đi vào chòi lấy can nhựa này để lên xe rồi tiếp tục điều khiển xe cùng tài sản lấy trộm đi về nhà. Khi Ph điều khiển xe mô tô và số tài sản lấy trộm được đi đến khu vực ấp T Ph, xã T Th, huyện B Đ thì bị tổ công tác của Công an xã T Th, tuần tra phát hiện.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số: 112/2021/BKL- ĐGTS ngày 02/02/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B Đ xác định: Tại thời điểm ngày 01/02/2021 trị giá của 01 (một) tivi nhãn hiệu Asanzo, loại 32 inch, model 32S800 màu đen là 3.100.000đ (ba triệu một trăm nghìn đồng), chất lượng sử dụng 80% có giá là: 2.480.000đ (hai triệu bốn trăm tám mươi nghìn đồng); 01 (một) chiếc đầu thu sóng nhãn hiệu Humas, loại D230 màu đen, là 450.000đ (bốn trăm năm mươi nghìn đồng), chất lượng sử dụng 50% là: 225.000đ (hai trăm hai mươi lăm nghìn đồng); 02 (hai) chiếc loa nhãn hiệu Loyful, loại 804, màu đen viền xanh, kích thước (08x10x7)cm là 110.000đ (một trăm mười nghìn đồng), chất lượng sử dụng 70% là: 77.000đ (bảy mươi bảy nghìn đồng).

Tại bản kết luận định giá số: 305/2021/BKL- ĐGTS và Bản kết luận định giá số 306/BKL–ĐGTS ngày 26/3/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện B Đ xác định:Tại thời điểm ngày 01/02/2021 trị giá của 18 lít dầu DO là 13.040đ/lít, chất lượng sử dụng 100% có giá là: 234.720đ (hai trăm ba mươi bốn nghìn bảy trăm hai mươi đồng) và 13 lít dầu DO là 13.040đ/lít, chất lượng sử dụng 100% có giá là: 169.520đ (một trăm sáu mươi chín nghìn năm trăm hai mươi đồng); trị giá của 31 lít dầu DO có giá là 404.240đ (bốn trăm lẻ bốn nghìn hai trăm bốn mươi đồng).

Tổng trị giá tài sản mà bị cáo Lê Văn Ph chiếm đoạt có tổng giá trị là:3.186.240đ (ba triệu một trăm tám mươi sáu nghìn hai trăm bốn mươi đồng).

Hành vi của bị cáo Lê Văn Ph đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự như bản Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện B Đ truy tố là đúng hành vi, đúng pháp luật.

[3]. Về tính chất, mức độ của hành vi:

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an tại địa Ph. Bị cáo là người đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi trộm cắp tài sản là vi phạm pháp luật nhưng với mục đích tư lợi, muốn có tiền tiêu xài cá nhân bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội, điều này thể hiện thái độ coi thường pháp luật của bị cáo là rất cao. Vì vậy, cần xử phạt mức án thật nghiêm tương ứng với hành vi phạm tội của bị cáo nhằm răn đe, giáo dục và phòng ngừa chung.

[4]. Tình tiết tăng nặng: Bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

[5]. Tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, tài sản đã được thu hồi và trả lại cho người bị hại, bị cáo là lao động chính duy nhất trong gia đình. Đây là những tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm i, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự HĐXX cần xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

[6]Về nhân thân: Đối với bị cáo Lê Văn Ph, ngoài lần phạm tội này thì trước đó: Vào ngày 17/6/2016 bị Tòa án nhân dân huyện B Đ, tỉnh Bình Phước ra Quyết định áp dụng biện pháp hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. bị cáo đã chấp hành xong.

[7]Trách nhiệm dân sự: Những người bị hại đã nhận lại được tài sản bị chiếm đoạt và không có yêu cầu gì thêm nên HĐXX không xem xét.

[8]Về vật chứng:

- Đối với 01 (một) tivi nhãn hiệu Asanzo, loại 32 inch, model 32S800,01 chiếc đầu thu sóng nhãn hiệu Humas, loại D230, màu đen, 02 (hai) chiếc loa nhãn hiệu Loyful, loại 804, màu đen viền xanh, là tài sản hợp pháp của bà Hoàng Thị Ngh, Cơ quan CSĐT Công an huyện B Đ đã trả lại cho bà Ngh là có căn cứ nên HĐXX không xét.

- Đối với 18 (mười tám) lít dầu DO và 13 (mười ba) lít dầu DO đựng trong 02 (hai) can nhựa, là tài sản hợp pháp của ông Đinh Văn D, Cơ quan CSĐT Công an huyện B Đ đã trả lại cho ông D là có căn cứ nên HĐXX không xét.

- Đối với 01 (một) chiếc xe mô tô, không biển kiểm soát, hiệu Heasun, màu tím đen quá trình điều tra xác định chiếc xe trên có BKS: 93T4 -1236, SK: RMFHCH 1135H000240; SM: RMF150FMHA -5000240 xe đứng tên đăng ký là ông Điểu Ng sn: 1976, HKTT: ấp Ph T, xã H Ph, huyện B Đ, ông Điểu Ng mua chiếc xe này vào năm 2007 đến năm 2011 ông Điểu Ng bán lại chiếc xe cho ông Đặng Hữu Ph sn: 1963, HKTT: ấp H Th, xã L H, huyện L N, tỉnh Bình Phước, năm 2013 ông Phước đã bán chiếc xe này cho ông Lê Văn T2, sinh năm: 1960, HKTT: ấp T Ph, xã T Th, huyện B Đ là cha ruột của Ph. Ngày 01/02/2021, Ph tự ý lấy chiếc xe trên để thực hiện hành vi trộm cắp, ông T2 không biết nên cần tuyên trả lại cho ông Lê Văn T2.

- Đối với 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia1208 màu đen là tài sản của Lê Văn Ph không liên quan đến việc phạm tội nên cần trả lại cho Ph.

- Đối với 01 (một) chiếc kìm cộng lực cán màu xanh dài 36m, là công cụ do Lê Văn Ph sử dụng để thực hiện hành vi trộm cắp tài sản, xét thấy không còn giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

[9]Về án phí: Căn cứ vào Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Bị cáo phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

Xét đề nghị của đại diện Viện Kiểm sát về mức án đối với bị cáo, và các vấn đề khác là phù hợp nên được chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Lê Văn Ph phạm tội: “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm I, s khoản 1 khoản 2 Điều 51; Điều 50; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt bị cáo Lê Văn Ph 07 (bảy) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam (ngày 03/02/2021).

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47, Điều 48 của BLHS; Điều 106 BLTTHS tuyên:

- Trả lại cho ông Lê Văn T2 01 (một) chiếc xe mô tô, không biển kiểm soát, hiệu Heasun, màu tím đen (quá trình điều tra xác định chiếc xe trên có BKS: 93T4 -1236, SK: RMFHCH 1135H000240; SM: RMF150FMHA -5000240).

- Trả lại cho bị cáo Lê Văn Ph 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Nokia1208 màu đen.

- Tịch thu tiêu hủy 01 (một) chiếc kìm cộng lực cán màu xanh dài 36m.

(Số vật chứng trên đã được giao nhận cho Chi cục thi hành án dân sự dân sự huyện B Đ theo Biên bản giao nhận vật chứng số 0007693 ngày 23/4/2021).

3. Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo phải nộp 200.000đ (hai trăm nghìn đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án; Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

205
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/HSST ngày 27/05/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đốp - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về