Bản án 30/2021/HS-ST ngày 18/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN M, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 30/2021/HS-ST NGÀY 18/01/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 18 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện M, tỉnh Sơn La; xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 32/2020/TLST-HS ngày 15 tháng 12 năm 2020, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 33/2021/QĐXXST- HS ngày 06 tháng 01 năm 2021 đối với bị cáo:

ng Văn T, sinh 16/12/1997; tại: huyện M, tỉnh Sơn La. Nơi cư trú: bản P, xã H, huyện M, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ học vấn: Lớp 9/12; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: không; con ông Tòng Văn T (đã chết) và bà Lò Thị H, sinh 1978; bị cáo có vợ Lò Thị H, sinh 1996 và 01 con sinh năm 2015; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: ngày 04/11/2015 bị Toà án nhân dân huyện M xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” đã được xoá án tích; bị cáo bị bắt tạm giữ, giam từ ngày 01/10/2020 đến nay; có mặt tại phiên toà.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Cầm Trọng Thuỷ là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Sơn La; có mặt.

- Người làm chứng: Lò Văn T; nơi cư trú: bản C, xã Lè, huyện T, tỉnh Sơn La; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 40 phút, ngày 01/10/2020 Lò Văn T đi bộ đến nhà Tòng Văn T ở bản P, xã H, huyện M; Tấn gặp và hỏi T “Có hàng không? nếu có bán cho tao một ít”, T trả lời “Có, mua bao nhiêu” T đưa cho T 190.000VNĐ, T nhận tiền rồi đưa cho T 01 gói nilon màu hồng thì bị Tổ công tác Công an xã H phát hiện Lò Văn T đã giao nộp gói nilon màu hồng bên trong có chất bột màu trắng và khai nhận là ma tuý vừa mua được của T. Thấy vậy, T đã giao số tiền 190.000VNĐ, cùng 02 gói nilon màu trắng bên trong có chứa cục bột màu trắng, T khai nhận đó là ma tuý. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người phạm tội quả tang hồi 17 giờ 00 phút, thu giữ, niêm phong vật chứng, dẫn giải về Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện M để điều tra theo thẩm quyền. Cùng ngày tiến hành khám xét khẩn cấp nhà ở của T nhưng không thu giữ gì thêm.

ng Văn T khai về nguồn gốc ma tuý do T tự gặp và mua 03 gói nilon bên trong có chứa Heroine của một người đàn ông dân tộc Mông không biết tên, địa chỉ vào thời gian 16 giờ 30 phút ngày 01/10/2020, cất giữ mục đích để sử dụng và bán kiếm lời.

Ngày 02/10/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện M, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Phòng PC09 Công an tỉnh Sơn La tiến hành mở niêm phong cân tịnh tách bì, xác định khối lượng và lấy mẫu giám định tang vật thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn T và Tòng Văn T như sau:

Chất bột màu trắng trong gói nilon màu hồng thu giữ với Lò Văn T có khối lượng: 0,01 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là TT;

Chất bột màu trắng trong gói nilon màu trắng thứ nhất thu giữ với Tòng Văn T có khối lượng: 0,03 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là T1;

Chất bột màu trắng trong gói nilon màu trắng thứ hai thu giữ với Tòng Văn T có khối lượng: 0,03 gam, lấy toàn bộ làm mẫu gửi giám định ký hiệu là T2;

Còn lại 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 02 mảnh nilon màu trắng, 01mảnh nilon màu hồng niêm phong lưu kho vật chứng theo quy định.

Ngày 05/10/2020 Cơ quan CSĐT Công an huyện thực hiện trưng cầu giám định số tiền 190.000VNĐ thu giữ của Tòng Văn T.

Ngày 06/10/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có Kêt luân giám định số: 1534, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu TT, T1, T2 đều là ma túy; Loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là TT= 0,01 gam, T1= 0,03 gam, T2= 0,03 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,07 gam; loại Heroine”.

Ngày 22/10/2020 Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La có kêt luân giám định số 1602, Kết luận: Số tiền VNĐ gửi giám định là tiền thật.

Tiến hành điều tra xác minh nhân thân của Lò Văn T, xác định chưa có tiền án, tiền sự là người nghiện ma tuý cơ quan chức năng đã áp dụng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính.

Thực hiện điều tra, xác minh đối với người bán trái phép chất ma túy cho Tuân nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của T.

Bản cáo trạng số 01/CT-VKSML ngày 15/12/2020 của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo Tòng Văn T về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên toà bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình với mục đích mua ma túy cất giữ để sử dụng và bán cho người khác kiếm lời thì bị bắt như cáo trạng đã nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện M luận tội và tranh luận: đề nghị tuyến bố bị cáo Tòng Văn T phạm tội “ Mua bán trái phép chất ma túy”. Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Tòng Văn T từ 24 tháng đến 30 tháng tù; không áp dụng phạt bổ sung đối với bị cáo. Áp dụng điểm b, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: 02 vỏ phong bì; 02 mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh nilon màu hồng của Tòng Văn T. Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 190.000VNĐ của Tòng Văn T. Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo, miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Người bào chữa cho bị cáo T tranh luận: đồng ý với nội dung cáo trạng và lời khai bị cáo đã trình bày; sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, hiểu biết về đời sống xã hội và pháp luật rất hạn chế, hộ nghèo; nên đề nghị Hội đồng xét xử xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự và cho bị cáo hưởng mức thấp nhất của khung hình phạt 24 tháng tù, để bị cáo yên tâm cải tạo, sớm trở về với gia đình, xã hội; đề nghị áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, miễn tiền án phí cho bị cáo.

Bị cáo bổ sung bào chữa, tranh luận: bị cáo xin Hội đồng xét xử khoan hồng giảm nhẹ hình phạt, xin được miễn án phí.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện M, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện M, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người khác không có ý kiến, khiếu nại, tố cáo về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Người làm chứng vắng mặt, Hội đồng xét xử thấy lời khai có trong hồ sơ đã rõ nên quyết định xét xử vắng mặt; căn cứ Điều 293 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[3] Về chứng cứ xác đinh hành vi phạm tội: Lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, cáo trạng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định, chứng cứ, tài liệu đã được thu thập và phản ánh trong hồ sơ của vụ án, được thẩm tra, xác minh tại phiên toà, xác định: bị cáo Tòng Văn T đã mua trái phép chất ma tuý về cất giấu với mục đích để sử dụng và bán lại kiếm lời mà thực tế khoảng 16 giờ 40 phút, ngày 01/10/2020 Lò Văn Tấn đến gặp Tuân tại nhà ở bản P, xã H, huyện M, Lò Văn Tấn hỏi Tuân “Có hàng không? nếu có bán cho tao một ít”, Tuân trả lời “Có, mua bao nhiêu”, Tấn đưa cho Tuân 190.000VNĐ, T nhận tiền rồi đưa cho T 01 gói nilon màu hồng thì bị Tổ công tác Công an xã Hua Trai phát hiện, lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, thu giữ với T 01 gói nilon màu hồng bên trong có chất bột màu trắng, thu giữ với T số tiền 190.000VNĐ và 02 gói nilon màu trắng bên trong đều có chất bột màu trắng. Tại kết luận giám định số 1534, ngày 06/10/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu TT, T1, T2 đều là ma túy; Loại Heroine; khối lượng của mẫu gửi giám định là TT= 0,01 gam, T1= 0,03 gam, T2= 0,03 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 0,07 gam; loại Heroine”. Như vậy, Tòng Văn T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, đã cố ý trực tiếp thực hiện hành vi cất giấu, cất giữ và bán trái phép chất ma tuý cho người khác để kiếm lời là xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý có đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Tòng Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 của Bộ luật Hình sự; tội phạm và hình phạt được quy định như sau: “1. Người nào mua bán trái phép chất ma túy, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.

[4] Về tính chất mức độ của hành vi: Bị cáo đã được Đảng và Nhà nước tuyên truyền, vận động, cấm sản xuất, mua bán, tàng trữ, vận chuyển trái phép chất ma tuý, bị cáo đã được cải tạo giáo dục rèn luyện bản thân (đã chấp hành án phạt tù) nhưng ý thức coi thường kỷ cương xã hội, pháp luật của Nhà nước, nhằm mục đích tư lợi cá nhân, kiếm lời dễ dàng bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi mua bán trái phép chất ma túy của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý; với lỗi cố ý trực tiếp bị cáo không chỉ cất giấu, cất giữ trái phép ma túy có khối lượng 0,07 gam mà còn bán trái phép chất ma túy cho người khác; tội phạm bị cáo thực hiện đã hoàn thành, hành vi phạm tội nghiêm trọng, không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ, sự phát triển về thể chất của con người, suy giảm khả năng lao động do nghiện ma túy và kinh tế của gia đình bị cáo mà còn ảnh hưởng đến chính sách về giáo dục người phạm tội của Nhà nước, ảnh hưởng xấu về trật tự an toàn xã hội, trật tự trị an ở địa phương, là nguyên nhân gây ra những loại tội phạm, vi phạm pháp luật khác nên Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện M truy tố bị cáo theo tội danh và điều luật áp dụng là đúng người, đúng tội; tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát luận tội quy kết bị cáo phạm tội và đề nghị phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ và phù hợp.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sư: Bị cáo không phạm tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sư, nhân thân: Bị cáo thành khẩn khai báo (khai đầy đủ, đúng sự thật tất cả những gì liên quan đến hành vi phạm tội), ăn năn hối cải (bị cáo luôn thể hiện sự cắn rứt, dày vò lương tâm, chấp hành tốt nội quy, quy định nhà tạm giữ, tạm giam, mong muốn sửa chữa, cải tạo mình thành người tốt). Do đó, xét cho bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người dân lao động, người dân tộc thiếu số, sống ở vùng sâu, xa, nhận thức pháp luật hạn chế, hộ nghèo, cần xem xét giúp đỡ bị cáo sửa chữa sai lầm, trở thành công dân có ích cho xã hội nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

Nhân thân: Bị cáo không có tiền sự nhưng nhân thân xấu (đã bị kết án), chính quyền địa phương xác định bị cáo là đối tượng nghiện ma túy (phiếu xét nghiệm dương tính (+) với ma túy), không chấp hành quy định của địa phương, không có khả năng tự cải tạo nên cần cách ly ra ngoài xã hội một thời gian để đảm bảo giáo dục, cải tạo các bị cáo thành người tốt, có ích cho xã hội và cũng nhằm răn đe, phòng ngừa, giáo dục cho hành vi tương tự.

[7] Theo quy định tại khoản 5 Điều 251 Bộ luật Hình sự, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, biên bản xác minh tài sản, lời khai của bị cáo tại phiên tòa xác định: bị cáo không có tài sản giá trị nên không áp dụng hình phạt bổ sung, phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về biện pháp ngăn chặn: áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm việc thi hành án; bị cáo bị tạm giữ, giam từ ngày 01/10/2020 được xem xét khấu trừ vào thời gian chấp hành hình phạt tù.

[9] Đối với Lò Văn T là người mua trái phép 0,01 gam Heroine của T, đang cất giữ thì bị bắt quả tang nhưng T chưa có tiền án, tiền sự, khối lượng ma tuý không đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên Cơ quan chức năng đã áp dụng biện xử phạt hành chính là có căn cứ; đối với người bán trái phép chất ma tuý cho bị cáo, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không thu thập được tài liệu khác ngoài lời khai của Tuân nên không có cơ sở chứng minh, xử lý theo vụ án.

[10] Vật chứng của vụ án: Cơ quan chức năng đã lấy mẫu giám định 0,07 gam Heroine, không hoàn lại mẫu giám định nên không có cơ sở xử lý.

Hiện đang lưu kho vật chứng: 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 02 mảnh nilon màu trắng, 01 mảnh nilon màu hồng, bị cáo Tuân đã sử dụng làm phương tiện cất giữ trái phép chất ma tuý, vật chứng không có giá trị nên cần tịch thu và tiêu hủy, căn cứ điểm c khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

Đối với số tiền 190.000VNĐ bị cáo Tuân đã bán bán trái phép chất ma túy cho Lò Văn T có được là số tiền do phạm tội mà có nên cần phải tịch thu nộp ngân sách Nhà nước, căn cứ điểm b khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự và điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự.

[11] Về án phí: Tài liệu trong hồ sơ xác định bị cáo là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng đặc biệt khó khăn, hộ nghèo, tại phiên tòa bị cáo, người bào chữa cho bị cáo xin miễn nộp tiền án phí; theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo thuộc trường hợp được miễn án phí.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 251; Điều 38; điểm s khoản 1, 2 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; điểm b, c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Tuyên bố: Bị cáo Tòng Văn T phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

2. Xử phạt: Bị cáo Tòng Văn T 30 (Ba mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, giam (01/10/2020); không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

3. Về vật chứng: Tịch thu và tiêu hủy: 02 vỏ phong bì niêm phong ban đầu, 02 mảnh nilon màu trắng và 01 mảnh nilon màu hồng của Tòng Văn T.

Tịch thu, nộp ngân sách Nhà nước số tiền 190.000VNĐ (Một trăm chín mươi nghìn đồng) của Tòng Văn T.

(Chi tiết theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 16/12/2020 giữa Công an huyện M và Chi cục Thi hành án dân sự huyện M, tỉnh Sơn La).

4. Về án phí: Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo T.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (18/01/2021).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/HS-ST ngày 18/01/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mường La - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về