TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH LÂM ĐỒNG
BẢN ÁN 30/2021/HS-PT NGÀY 17/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN
Ngày 17 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm vụ án hình sự thụ lý số 219/2020/TLPT-HS, ngày 31-12-2020 đối với bị cáo Ngô Văn Nam do kháng cáo của bị cáo Ngô Văn N đối với bản án hình sự sơ thẩm số 58/2020/HS-ST; ngày 24-11-2020 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.
Bị cáo kháng cáo:
Họ và tên: Ngô Văn N; sinh năm 1985 tại tỉnh Lâm Đồng; nơi ĐKHKTT và cư trú: Thôn b, xã HN, huyện DLi, tỉnh Lâm Đồng; nghề nghiệp: Làm nông; trình độ văn hóa: 02/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Ngô Văn T (đã chết) và bà Đoàn Thị N, có vợ Lê Thị D;
Tiền án, tiền sự: Không; về nhân thân:
Năm 2005 bị Tòa án nhân dân huyện Di Linh xử phạt 06 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 30/HSST ngày 28-4-2005, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 10-8-2005 và đã được xóa án tích;
Năm 2009 bị Tòa án nhân huyện Di Linh xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 81/2009/HSST ngày 17-12-2009, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 17-6-2010 và đã được xóa án tích.
Năm 2012 bị Tòa án nhân dân huyện Di Linh xử phạt 09 tháng tù giam về tội “Trộm cắp tài sản” tại bản án số 27/2012/HSST ngày 04-5-2012, đã chấp hành xong hình phạt tù ngày 17-11-2012 và đã được xóa án tích.
Bị cáo được điều tra tại ngoại. Có mặt.
Người giám hộ của bị cáo: Bà Lê Thị D (vợ bị cáo); sinh năm 1976; nơi cư trú: Thôn b, xã HN, huyện DL, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
Trợ giúp viên pháp lý: Ông Phạm Công Vân - Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng. Có mặt.
Trong vụ án này còn có bị hại anh Nguyễn Đình Q không kháng cáo;
không bị kháng nghị.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Vào khoảng 15 giờ 00 phút ngày 05-11-2019, bị cáo Ngô Văn N đi bộ đến nhà anh Nguyễn Đình Q ở thôn b, xã HN, huyện DL, tỉnh Lâm Đồng nhưng không có ai ở nhà. Do biết vị trí anh Q cất chìa khóa nhà nên bị cáo tự ý lấy chìa khóa mở cửa vào nhà anh Q và nằm trên ghế ở phòng khách. Khi nằm trên ghế, bị cáo thấy 02 điện thoại di động, 01 điện thoại di động OPPO A39 màu trắng vàng đã bị bể mặt kính, 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi Note 7 màu xanh đen đang cắm sạc pin và 01 xe mô tô hiệu Suzuki Viva biển số 49G1 - 27989 để trong nhà không có ai trông coi nên nảy sinh ý định trộm cắp số tài sản trên để sử dụng. Bị cáo rút 02 điện thoại khỏi đầu cắm sạc pin và bỏ vào túi quần rồi dắt xe mô tô ra khỏi nhà anh Q.
Đến 17h00 cùng ngày anh Q về nhà thì phát hiện tài sản bị mất và trình báo cơ quan công an. Đến khoảng 12 giờ 00 phút ngày 06-11-2019, bị cáo mang xe mô tô trộm cắp được về để tại sân nhà bà T là mẹ 2 của bị cáo tại thôn 2, xã Hòa Nam và nói là xe bị cáo đi mượn, sau đó để lại xe mô tô và bỏ đi. Đến ngày 07-11-2019 bị cáo ra trình diện tại cơ quan Công an và khai nhận hành vi phạm tội.
Tại bản Kết luận định giá tài sản số 380/KL- HĐĐG ngày 27-11-2019 của Hội đồng định giá huyện Di Linh đã xác định giá trị xe mô tô Suzuki Viva biển số 49G1 - 27989 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động OPPO A39 màu trắng vàng đã bị bể mặt kính, 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi Note 7 màu xanh đen đã qua sử dụng có tổng trị giá 10.015.000 đồng.
Tại Cơ quan điều tra, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội. Tuy nhiên, gia đình bị cáo cung cấp hồ sơ bị cáo Ngô Văn N đang điều trị tại bệnh viện tâm thần Thành phố Hồ Chí Minh với chẩn đoán: “Loạn thần không thực tổn do biệt định”.
Ngày 07-01-2020 cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Di Linh đã ban hành Quyết định số 03 trưng cầu giám định tình trạng tâm thần đối với bị cáo Ngô Văn N.
Tại bản kết luận giám định pháp y tâm thần số 1256/KLGĐ ngày 10-6- 2020 của Trung tâm pháp y tâm thần khu vực Thành phố Hồ Chí Minh đối với Ngô Văn N kết luận: Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản ngày 05-11-2019 cho đến hiện tại đối tượng hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi.
Tại Cáo trạng số 61/CT-VKS ngày 03-11-2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng truy tố bị cáo Ngô Văn N về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tại Bản án số 58/2020/HS-ST; ngày 24-11-2020 của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng:
Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Ngô Văn N 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.
Bản án còn tuyên án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 08-12-2020 bị cáo Ngô Văn N kháng cáo xin hưởng án treo.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội đúng như bản án sơ thẩm đã xét xử; không thắc mắc, khiếu nại gì thêm; bị cáo xin giữ nguyên kháng cáo và không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới.
Trợ giúp viên pháp lý bào chữa cho bị cáo thống nhất với tội danh mà bản án sơ thẩm đã xét xử đối với bị cáo. Tuy nhiên xin Hội đồng xét xử cân nhắc bị cáo sinh ra trong gia đình đông anh em, gia đình làm nông, cha mất sớm, bị cáo là con cả trong gia đình, học ít, nhận thức pháp luật và hạn chế năng lực hành vi dân sự, ngoài ra còn có sự sơ hở của người bị hại áp dụng điểm b, s khoản 1 khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 để xét xử bị cáo mức thấp nhất để bị cáo có điều kiện ở nhà chữa bệnh.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng đề nghị áp dụng điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Văn N; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Căn cứ lời khai của bị cáo và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã có đủ cơ sở xác định:
Vào khoảng 15 giờ ngày 05-11-2019 tại thôn b, xã HN, huyện DL, tỉnh Lâm Đồng bị cáo đã có hành vi trộm cắp 01 xe mô tô Suzuki Viva biển số 49G1-27989 đã qua sử dụng; 01 điện thoại di động hiệu OPPO A39 màu trắng vàng đã bị bể mặt kính, 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi Note 7 màu xanh đen hàng cũ đã qua sử dụng của anh Nguyễn Đình Q, tổng giá trị tài sản trộm cắp 10.015.000đ.
[2] Xét kháng cáo của bị cáo: Đơn kháng cáo của bị cáo gửi trong hạn luật định và đúng quy định nên được xem xét.
Hành vi trộm cắp tài sản của bị cáo là hành vi nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác. Bị cáo biết rất rõ việc trộm cắp tài sản là hành vi vi phạm và bị pháp luật nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội.
Bị cáo có nhân thân xấu; năm 2005, năm 2009 và năm 2012 đã 03 lần bị Tòa án nhân dân huyện Di Linh xét xử về tội “Trộm cắp tài sản” nhưng không lấy đó làm bài học; sau khi chấp hành án xong hình phạt tù lại tiếp tục thực hiện hành vi trộm cắp tài sản.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố bị cáo Ngô Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản” áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Ngô Văn N 09 tháng tù là đúng người, đúng tội.
Tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo Ngô Văn N giữ nguyên kháng cáo nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới nên kháng cáo của bị cáo Ngô Văn N không có cơ sở để xem xét như đề nghị của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tại phiên tòa hôm nay là phù hợp và đúng quy định của pháp luật.
[3] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự phúc theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
1. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 355; Điều 356 của Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Ngô Văn N; giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Tuyên bố: Bị cáo Ngô Văn N phạm tội “Trộm cắp tài sản”.
Áp dụng khoản 1 Điều 173; Điều 38; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015; xử phạt bị cáo Ngô Văn N 09 (Chín) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.
2. Về án phí: Áp dụng Điều 135 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về án phí và lệ phí tòa án. Buộc bị cáo Ngô Văn N phải chịu 200.000đ án phí hình sự phúc thẩm.
3. Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 30/2021/HS-PT ngày 17/03/2021 về tội trộm cắp tài sản
Số hiệu: | 30/2021/HS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Lâm Đồng |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 17/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về