Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 01/06/2021 về ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CẨM PHẢ, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 30/2021/HNGĐ-ST NGÀY 01/06/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 13 tháng 5 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 496/2020/TLST – HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2020, về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 22/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2021/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 5 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị N; sinh năm: 1970; địa chỉ: Tổ 2, khu L, phường T, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Đức P1; sinh năm: 1961; địa chỉ: Tổ 2, khu L, phường T, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh; có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong Đơn khởi kiện về việc xin ly hôn đề ngày 10 tháng 12 năm 2020 nộp tại Tòa án; các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị N trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn hợp pháp ngày 01 tháng 4 năm 1989 tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Thành, thị xã Cẩm Phả (nay là thành phố Cẩm Phả), tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống hạnh phúc tại nhà riêng ở địa chỉ: Tổ 2, khu L, phường T, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Ngay từ khi kết hôn hai vợ chồng đã phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Nguyễn Đức P1 thường xuyên rượu chè say xỉn về chửi mắng, đánh đập vợ con. Chị Nguyễn Thị N đã phải đưa con ra ngoài sinh sống và hai vợ chồng sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay, mỗi người sống ở một nơi, không quan tâm đến cuộc sống của nhau, kinh tế gia đình không tập trung. Trong thời gian sống ly thân, gia đình hai bên và khu phố khuyên giải đoàn tụ nhiều lần nhưng anh Nguyễn Đức P1 vẫn thường xuyên sử dụng rượu, bia sau đó kiếm cớ để đến nhà hành hung, đánh đập vợ. Chị Nguyễn Thị N xác định đến nay mâu thuẫn giữa chị và anh Nguyễn Đức P1 đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho Chị được ly hôn với anh Nguyễn Đức P1 để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 có hai con chung là Nguyễn Bích P2, sinh ngày 20/3/1995 và Nguyễn Đức P3, sinh ngày 20/3/1990. Hiện nay các con chung đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và có khả năng lao động, chị Nguyễn Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ chung vợ chồng: Chị Nguyễn Thị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, bị đơn anh Nguyễn Đức P1 trình bày: Về quá trình kết hôn và con chung giữa anh và chị Nguyễn Thị N đúng như nội dung phần trình bày của chị Nguyễn Thị N đã nêu ở trên. Anh Nguyễn Đức P1 xác định mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ năm 2010 do chị Nguyễn Thị N không tôn trọng chồng, ghen tuông vô cớ và vợ chồng thường bất đồng về quan điểm, lối sống dẫn đến xảy ra đánh, cãi nhau. Đến năm 2015, chị Nguyễn Thị N tự ý mua nhà và ra ở riêng. Anh P1 đã nhiều lần muốn hàn gắn mâu thuẫn và đón chị N về nhưng chỉ được vài ngày hai bên lại xảy ra mâu thuẫn và hai vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Hiện nay chị Nguyễn Thị N có yêu cầu xin ly hôn, anh Nguyễn Đức P1 xác định vẫn còn tình cảm vợ chồng và không muốn làm ảnh hưởng đến cuộc sống, thể diện của các con nên không đồng ý ly hôn với chị Nga.

Về con chung: Anh P1 và chị N có hai con chung là Nguyễn Bích P2, sinh ngày 20/3/1995 và Nguyễn Đức P3, sinh ngày 20/3/1990. Hiện cả hai con chung đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và có khả năng lao động, anh Nguyễn Đức P1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng: anh Nguyễn Đức P1 đề nghị được tự thỏa thuận với chị Nga, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Trong trường hợp giữa Anh và chị N có tranh chấp về tài sản anh P1 sẽ đề nghị Tòa án giải quyết bằng một vụ việc khác theo quy định của pháp luật.

Tại biên bản xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với đại diện khu phố L, phường T, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh và biên bản xác minh thu thập chứng cứ của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả ngày 16 tháng 4 năm 2021 đối với Công an phường T, thành phố Cẩm Phả thể hiện nội dung về quá trình chung sống và tình trạng sống ly thân của vợ chồng chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 đúng như phần trình bày của chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 đã nêu ở trên. Đại diện Công an phường T xác nhận đã đến làm việc, giải quyết việc vợ chồng anh P1 chị N mâu thuẫn đánh chửi nhau nhưng Công an phường T không lập biên bản làm việc mà chỉ tiến hành phân tích, hòa giải giữa hai vợ chồng.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả phát biểu ý kiến như sau:

Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và các đương sự trong vụ án đã thực hiện đúng và đủ các quy định của pháp luật tố tụng dân sự từ khi thụ lý đến khi xét xử.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cẩm Phả đánh giá mâu thuẫn giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 là trầm trọng, kéo dài. Nay chị Nguyễn Thị N đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh Nguyễn Đức P1 là có căn cứ chấp nhận.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào yêu cầu khởi kiện; kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Nvà anh Nguyễn Đức P1 thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh theo quy định tại khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Qua các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai của các đương sự tại phiên tòa thể hiện:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn hợp pháp ngày 01 tháng 4 năm 1989 tại Ủy ban nhân dân phường Cẩm Thành, thị xã Cẩm Phả (nay là thành phố Cẩm Phả), tỉnh Quảng Ninh. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống tại nhà tiêng ở địa chỉ: Tổ 2, khu L, phường T, thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Quá trình chung sống giữa hai vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng về quan điểm, lối sống nên có xảy ra cãi vã, đánh nhau. Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 sống ly thân từ năm 2015 cho đến nay. Trong thời gian sống ly thân chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 đã tìm biện pháp hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn vợ chồng chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 đã được gia đình, người thân, tổ dân khu phố động viên, hòa giải đoàn tụ nhiều lần nhưng không thành. Đến nay mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 đã đến mức trầm trọng, không thể hàn gắn được, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chị Nguyễn Thị N đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Đức P1 để ổn định cuộc sống. Xét yêu cầu đề nghị giải quyết ly hôn của nguyên đơn là có căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 51 và khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 có hai con chung là Nguyễn Bích P2, sinh ngày 20/3/1995 và Nguyễn Đức P3, sinh ngày 20/3/1990. Hiện nay các con chung đã trưởng thành, có đầy đủ năng lực pháp luật dân sự và có khả năng lao động, các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xét.

[2.3] Về tài sản chung, công nợ chung của vợ chồng: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Chị Nguyễn Thị N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

[4] Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 271; khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, Điều 147, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án:

Tuyên xử:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chị Nguyễn Thị N về việc xin ly hôn.

1. Chị Nguyễn Thị N được ly hôn với anh Nguyễn Đức P1.

2. Buộc chị Nguyễn Thị N phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí tòa án số: 0005638 ngày 25/12/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh. Chị Nguyễn Thị N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Chị Nguyễn Thị N và anh Nguyễn Đức P1 có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

253
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2021/HNGĐ-ST ngày 01/06/2021 về ly hôn

Số hiệu:30/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cẩm Phả - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về