Bản án 30/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BỐ TRẠCH, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 30/2020/HS-ST NGÀY 02/06/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 02/6/2020, tại Hội trường xét xử Tòa án Nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 29/2020/TLST-HS ngày 27/4/2020; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2020/QĐXXST-HS, ngày 18/5/2020, đối với bị cáo:

Nguyễn Hữu K, sinh ngày 16/9/1983 tại huyện B, tỉnh Q.

Nơi cư trú:Thôn V, xã T, huyện B, tỉnh Q.Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; đoàn thể: Quần chúng; trình độ văn hóa: 9/12; nghề nghiệp: Lao động tự do. Con ông Nguyễn Hữu Kh và bà Dương Thị H. Tiền án, tiền sự: không. Bị cáo K bị áp dụng biện pháp ngăn chặn “Cấm đi khỏi nơi cư trú” từ ngày 02/3/2020 cho đến nay, có mặt.

Quá trình nhân thân: Nguyễn Hữu K đã bị Tòa án Nhân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưỡng án treo, thời gian thử thách 17 tháng 24 ngày về tội”Trộm cắp tài sản” tại bản án số 92/2013/HSST ngày 27/12/2013.

-Người bị hại: Mai Văn M- Thôn M, xã T, huyện B, tỉnh Q; vắng mặt.

-Người làm chứng: Mai Thị Bảo T, sinh năm 2014 - Thôn M, xã T, huyện B, tỉnh Q; vắng mặt.

-Người giám hộ cho Mai Thị Bảo T: Mai Văn M - Thôn M, xã T, huyện B, tỉnh Q; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 16 giờ 00 phút ngày 04/02/2020, Nguyễn Hữu K đi đến nhà anh Mai Văn M thì thấy con gái anh Minh là cháu Mai Thị Bảo T đang ngồi chơi một mình trong sân nhà, K nhìn thấy 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu VIVO 1901(VIVO Y15), màu mận đen đang để trên nền sân gạch chỗ cháu T đang ngồi chơi, lợi dụng sơ hở cháu T đang mãi chơi không để ý K lấy trộm điện thoại di động nói trên bỏ vào túi quần dài rồi đưa về nhà cất dấu. Kết luận định giá số 03/KL-HĐĐGTS ngày 10/02/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình xác định chiếc điện thoại nêu trên có giá trị 6.140.000đồng.

Vật chứng vụ án: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình thu giữ tại K 01 điện thoại di động màn hình cảm ứng nhãn hiệu VIVO 1901(VIVO Y15), màu mận đen, số IMEI 1: 860062048566219; IMEI 2: 860062048566201, đã xử lý trả lại cho người bị hại anh Mai Văn M.

Trách nhiệm dân sự: Người bị hại Mai Văn M đã nhận lại tài sản, không có yêu cầu gì thêm.

Bản Cáo trạng số 27/CT-VKSBT ngày 22/4/2020 Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã truy tố Nguyễn Hữu K về tội”Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Bị cáo Khuân đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên và thừa nhận quyết định truy tố của Viện kiểm sát là đúng.

Đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố hành vi của bị cáo Nguyễn Hữu K đủ yếu tố cấu thành tội trộm cắp tài sản, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 173; điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Hữu K từ 06 đến 09 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Về vật chứng và trách nhiệm dân sự: Đã xử lý xong, nên không xét. Miễn hình phạt bổ sung(phạt tiền) cho Nguyễn Hữu K. Bị cáo K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Bị cáo K nói lời sau cùng: Đã thấy được hành vi phạm tội của mình, ăn năn hối lỗi, xin giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; Điều tra viên; Viện kiểm sát Nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo; người bị hại; người làm chứng; người giám hộ cho người làm chứng không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng; người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]Về hành vi của bị cáo, các chứng cứ xác định tội: Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo K đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án; phù hợp với lời khai của người bị hại và những người tham gia tố tụng khác và phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Bị cáo Nguyễn Hữu K đã phạm tội“ Trộm cắp tài sản” theo khoản 1Điều 173 Bộ luật hình sự, đúng như Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình đã truy tố đối với bị cáo.

[3]Xét tính chất, mức độ, hậu quả vụ án Hội đồng xét xử thấy rằng: Xuất phát từ động cơ hám lợi và ý thức coi thường pháp luật, Nguyễn Hữu K đã lén lút trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động của anh Mai văn M. Hành vi của bị cáo chẳng những xâm phạm đến tài sản của người khác mà còn ảnh hưởng xấu tình hình an ninh, trật tự ở địa phương; gây tâm lý hoang mang, lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần xử phạt nghiêm đối với bị cáo, cần cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian mới có tác dụng trừng trị, giáo dục riêng và răn đe, phòng ngừa chung về loại tội phạm này.

[4]Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tình tiết tăng nặng: Không; tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã tự nguyện giao nộp lại tài sản để khắc phục hậu qủa do hành vi của mình gây ra; tỏ ra thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình đang gặp khó khăn. Do đó, cần cho bị cáo hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; bị cáo đã một lần bị kết án về tội trộm cắp tài sản tại bản án số 92/2013/HSST ngày 27/12/2013 của Tòa án Nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình (đã được xóa án) nên không được hưỡng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng quy định tại điểm i khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên cần giảm nhẹ phần nào về hình phạt cho bị cáo là có căn cứ.

Bị cáo K là lao động tự do nghề nghiệp không ổn định, thu nhập thấp; gia đình đang khó khăn nên không xử phạt hình phạt bổ sung(phạt tiền) đối với bị cáo K là có căn cứ.

[5] Về xữ lý vật chứng và trách nhiệm dân sự: Đã xử lý xong, nên không xét.

[6] Bị cáo K phải chịu án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố Nguyễn Hữu K phạm tội”Trộm cắp tài sản”;

Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm b,s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Nguyễn Hữu K 06 (sáu ) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

2.Về vật chứng vụ án và trách nhiệm dân sự: Đã xử lý xong, nên không xét.

3.Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/ 2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Hữu K phải chịu 200.000đ(hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm để sung công quỹ Nhà nước.

Án xử sơ thẩm công khai, báo cho bị cáo có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án(02/6/2020); người bị hại vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

277
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HS-ST ngày 02/06/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bố Trạch - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về