Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 17/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ A - TỈNH GIA LAI

 BẢN ÁN 30/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/12/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 12 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 161/2020/TLST-HNGĐ ngày 21 tháng 8 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 38/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ H, sinh năm 1995; Nơi đăng ký NKTT: Tổ 1, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; Chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã T, thị xã A, tỉnh Gia Lai; có mặt;

- Bị đơn: Anh Huỳnh Thanh D, sinh năm 1992; Nơi đăng ký NKTT: Tổ 1, phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai; Chỗ ở hiện nay: Thôn C, xã T, thị xã A, tỉnh Gia Lai; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H trình bày:

Chị H và anh D tự nguyện tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán và chung sống với nhau như vợ chồng không có đăng ký kết hôn khoảng từ tháng 10 năm 2016, đến ngày 15/5/2017 mới đăng ký kết hôn tại UBND phường A, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Sau khi kết hôn chị đăng ký hộ khẩu và sống cùng gia đình chồng tại Tổ 1, phường A. Chị và anh D chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn, do anh D không lo làm ăn, thường xuyên uống rượu dẫn đến vợ chồng cãi nhau, gia đình hai bên đã nhiều lần hòa giải nhưng không thành. Hiện nay tình cảm vợ chồng chị đã không còn nên chị H yêu cầu Tòa án nhân dân thị xã A giải quyết cho chị ly hôn với anh Huỳnh Thanh D.

Về con chung: Chị H và anh D có một con chung là cháu Huỳnh Gia B, sinh ngày 17/9/2017. Chị đang có công việc, thu nhập ổn định khoảng 8.000.000đ/tháng. Anh D hiện nay không có công việc và thu nhập ổn định, cháu B còn nhỏ nên cần có sự chăm sóc của mẹ, do vậy chị H yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh D phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Lời khai có tại hồ sơ của anh Huỳnh Thanh D thể hiện: Anh D và chị H tự nguyện kết hôn có đăng ký kết hôn vào năm 2017 tại UBND phường A. Trong quá trình chung sống anh và chị H có xảy ra mâu thuẫn nhưng cũng không đến mức trầm trọng nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị H. Nếu Tòa án quyết định cho ly hôn thì anh đồng ý giao cho chị H trực tiếp nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung anh D không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Bị đơn không thực hiện nghĩa vụ có mặt tại Tòa theo các triệu tập, thông báo của Tòa án.

Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Chấp nhận cho chị Nguyễn Thị Mỹ H ly hôn với anh Huỳnh Thanh D. Giao cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp nuôi con chung là cháu Huỳnh Gia B, sinh ngày 17/9/2017 cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi và tự lập được. Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H yêu cầu ly hôn, có tranh chấp về nuôi con với anh Huỳnh Thanh D; địa chỉ: Thôn C, xã T, thị xã A, tỉnh Gia Lai. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A, tỉnh Gia Lai.

[2] Bị đơn anh Huỳnh Thanh D đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn anh Huỳnh Thanh D.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Huỳnh Thanh D chung sống với nhau như vợ chồng không có đăng ký kết hôn từ tháng 10 năm 2016 đến ngày 15/5/2017 mới đăng ký kết hôn, nên theo quy định tại khoản 2 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình thì quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh Cường được xác lập hợp pháp từ ngày 15/5/2017. Trong quá trình chung sống chị H và anh D có phát sinh mâu thuẫn nên dẫn đến việc chị H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh D. Theo kết quả xác minh thì vợ chồng chị H, anh D trong quá trình chung sống có phát sinh mâu thuẫn, thường xuyên cãi nhau. Lời khai có tại hồ sơ, anh D tuy không đồng ý ly hôn nhưng đã không cố gắng gỡ bỏ mâu thuẫn để tiếp tục chung sống cùng nhau. Nhiều lần Tòa án thông báo đến Tòa để hòa giải nhưng anh D không đến. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh D là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Mỹ H và anh Huỳnh Thanh D.

[4] Về việc nuôi con: Chị H và anh D có một con chung là cháu Huỳnh Gia B, sinh ngày 17/9/2017. Chị H đang trong độ tuổi lao động, có việc làm và thu nhập ổn định, anh D cũng đồng ý giao cho chị H trực tiếp nuôi con. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị H, giao cho chị H trực tiếp nuôi con là cháu Huỳnh Gia B cho đến khi cháu B đủ 18 tuổi và tự lập được. Chị H không có yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H và anh D không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, bị đơn anh Huỳnh Thanh D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82, 83, 84 và Điều 119 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Mỹ H, cụ thể như sau:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận chị Nguyễn Thị Mỹ H ly hôn với anh Huỳnh Thanh D.

2. Về con chung: Giao cho chị Nguyễn Thị Mỹ H trực tiếp nuôi con chung là cháu Huỳnh Gia B, sinh ngày 17/9/2017, khi cháu B chưa thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Mỹ H phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn là 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0004488 ngày 21 tháng 8 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã A, chị H đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Bị đơn anh Huỳnh Thanh D không phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, ngày 17/12/2020. Bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15(mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 17/12/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:30/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị Xã An Khê - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về