Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MỸ THO, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 30/2020/HNGĐ-ST NGÀY 16/07/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 16 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 84/2020/TLST-HNGĐ ngày 12 tháng 02 năm 2020 về tranh chấp “Ly hôn”.

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 90/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Ngô Tấn Ph, sinh năm 1977 (có mặt).

Địa chỉ thường trú: Số B, ấp T, xã T, tp. M, tỉnh T

Bị đơn: Chị Cao Thị Thu TH, sinh năm 1976 (vắng mặt). Địa chỉ: Số S, T, phường H, TP. M, T

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn anh Ngô Tấn Ph trình bày:

Anh và chị TH tiến đến hôn nhân từ năm 1999 và có đăng ký kết hôn tại UBND phường H, thành phố M, tỉnh T và được cấp giấy chứng nhận kết hôn theo qui định. Trong quá trình sinh sống hạnh phúc, đến giữa năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn do khác biệt quan điểm sống, thường xuyên cự cãi nhau, cuộc sống gia đình không còn hạnh phúc, từ năm 2017 đến nay, tuy ở cùng nhà nhưng mỗi người đều có cuộc sống riêng. Đến nay, cả hai đều không còn tình cảm với nhau. Nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được. Nay anh làm đơn yêu cầu giải quyết:

- Về hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với chị Cao Thị Thu TH.

- Về con chung: Có 02 con chung tên Ngô Cao Minh C sinh ngày 09/8/2001, đã thành niên và Ngô Cao Quốc V sinh ngày 10/10/2007. Ly hôn anh Ph đồng ý giao cháu V cho chị TH nuôi dưỡng, anh tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng 1.000.000 đồng - Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn chị Cao Thị Thu TH đã được toà án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo đúng quy định pháp luật nhưng vẫn không có ý kiến gì và không có mặt để dự phiên toà mà không có lý chính đáng.

* Tại phiên tòa:

Anh Ngô Tấn Ph thay đổi yêu cầu cấp dưỡng nuôi con, anh Ph tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và lao động được.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Thư ký tòa án, Hội đồng xét xử và các đương sự từ khi thụ lý vụ án cho đến thời điểm Hội đồng xét xử chuẩn bị nghị án đều đúng theo trình tự do Bộ luật tố tụng quy định.

Về quan điểm giải quyết vụ án: Đại diện Viện kiểm sát cho rằng yêu cầu khởi kiện của anh Ph là có căn cứ. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh Ph. Về con chung, đề nghị giao con chung cho chị TH trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, anh Ph có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi lao động được; Về tài sản chung, nợ chung: Do không yêu cầu Tòa án giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi thẩm tra xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, nghe lời trình bày của đương sự, ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Ngô Tấn Ph và chị Cao Thị Thu TH kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Được Ủy ban nhân dân phường 2 cấp giấy chứng nhận kết hôn số 80 ngày 30/8/1999. Ngày 12/02/2020 anh Ph khởi kiện yêu cầu được ly hôn với chị TH, đây là tranh chấp ly hôn được quy định tại Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Hình thức và nội dung đơn khởi kiện đúng quy định tại Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự. Chị TH cư trú tại địa chỉ số 63/5 Trịnh Hoài Đức, phường 2, TP. Mỹ Tho, Tiền Giang, theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, điểm a Khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Mỹ Tho.

Bị đơn Cao Thị Thu TH vắng mặt. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị TH theo quy định tại khoản 2 Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2] Về chứng cứ, chứng minh: Chị TH đã được Tòa án tống đạt hợp lệ văn bản tố tụng, thông báo về kết quả hòa giải và công khai các chứng cứ, nhưng không có ý kiến gì về các chứng cứ và yêu cầu khởi kiện của anh Ph. Theo biên bản xác minh tình trạng hôn nhân ngày 09/4/2020 tại UBND phường H thì địa phương không nắm được nguyên nhân mâu thuẫn dẫn đến anh Ph yêu cầu ly hôn. Nên căn cứ theo quy định tại khoản 4 Điều 91, khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 Hội đồng xét xử căn cứ vào lời khai của nguyên đơn và các chứng cứ có trong hồ sơ vụ án để giải quyết.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Ngô Tấn Ph và chị Cao Thị Thu TH kết hôn theo đúng quy định pháp luật, xác định hôn nhân của anh Ph và chị TH là hôn nhân hợp pháp. Theo lời khai của anh Ph, anh Ph và chị TH thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, nhưng đến năm 2016 đã bắt đầu phát sinh mâu thuẩn do khác biệt quan điểm sống, thường xuyên cự cãi nhau, cuộc sống gia đình không còn hạnh phúc, không còn quan tâm nhau mỗi người đều có cuộc sống riêng. Nhận thấy, mục đích hôn nhân không đạt được, nên anh yêu cầu Tòa giải quyết cho anh được ly hôn.

Tại phiên tòa, dù được giải thích về hậu quả của việc ly hôn nhưng anh Ph vẫn cương quyết ly hôn với chị TH. Từ khi khởi kiện đến nay phía chị TH cũng không có ý kiến gì đối với yêu khởi kiện của anh Ph. Xét thấy, thời gian vợ chồng mâu thuẫn đã lâu nhưng cả hai vẫn không giải quyết và hàn gắn được tình cảm, cho thấy đời sống vợ chồng giữa anh Ph và chị TH đã mâu thuẩn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Ph theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Trong thời kỳ hôn nhân, anh chị có 02 con chung tên Ngô Cao Minh C sinh ngày 09/8/2001, đã thành niên và Ngô Cao Quốc V sinh ngày 10/10/2007. Ly hôn, anh Ph đồng ý giao cháu V cho chị TH trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph tự nguyện cấp dưỡng nuôi con hàng tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi và lao động được.

Đối với con chung tên Ngô Cao Minh C hiện đã trưởng thành nên không xem xét giải quyết về con chung, riêng con chung Ngô Cao Quốc V hiện đang sinh sống cùng với chị TH. Căn cứ vào văn bản lấy ý kiến ngày 18/5/2020 thì cháu V có nguyện vọng muốn tiếp tục sống chung với chị TH nếu cha mẹ cháu ly hôn. Phía chị TH đã nhận được thông báo của Tòa về yêu cầu của anh Ph và về nguyện vọng của cháu V nhưng cũng không có ý kiến gì phản đối về việc tranh chấp nuôi con chung. Xét thấy, để đảm cho sự phát triển của cháu cần xem xét giao con chung là cháu V cho chị TH tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, anh Ph tự nguyện cấp dưỡng nuôi mỗi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi lao động được, là phù hợp qui định pháp luật.

[5]Về tài sản chung, nợ chung: Do không ai yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản và nợ chung. Nên Hội đồng xét xử ghi nhận và không xem xét giải quyết.

[6] Đề nghị của Đại diện viện kiểm sát nhân dân thành phố Mỹ Tho phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[7] Về án phí: Anh Ph phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 91, 92, 147, 227, 228, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 84, 131 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội.

Xử: 1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của anh Ngô Tấn Ph.

- Về quan hệ hôn nhân: Anh Ngô Tấn Ph được ly hôn với chị Cao Thị Thu TH.

- Về con chung: Giao con chung tên Ngô Cao Quốc V, sinh ngày 10/10/2007 cho chị Cao Thị Thu TH tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng, đến khi con chung đủ 18 tuổi và lao động được. Anh Ph có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 1.500.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi lao động được.

Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, cơ quan, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có quyền yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí: Anh Ngô Tấn Ph phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm. Anh Ph đã nộp 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí theo biên lai thu số 0001084 ngày 12/02/2020 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Mỹ Tho, nên xem như đã nộp xong án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Anh Ph có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, chị TH có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

211
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 16/07/2020 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:30/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Mỹ Tho - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về