Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BẢO THẮNG - TỈNH LÀO CAI

BẢN ÁN 30/2020/HNGĐ-ST NGÀY 10/09/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 10 tháng 9 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2020/TLST-HNGĐ ngày 16/6/2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 33/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 03/8/2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 17/2020/QĐST-HNGĐ ngày 19/8/2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trương Thị H, sinh năm 1994

Đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn P, xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Nơi ở: Phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An. Có mặt.

Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1991

Địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai.

Vng mặt lần 2 không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 15/6/2020, bản tự khai ngày 16/6/2020 và trong quá trình xét xử thì chị Trương Thị H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn ngày 01/7/2014 tại Uỷ ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai. Sau kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến tháng 10/2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh Đ chơi bời lô đề cờ bạc, chị tham gia khuyên bảo anh không nghe, do mâu thuẫn trầm trọng nên nên chị đã đưa con về ở cùng với bố mẹ đẻ của chị ở phường N, thị xã C, tỉnh Nghệ An và vợ chồng anh chị đã sống ly thân từ đó đến nay không còn quan tâm thăm hỏi đến nhau. Nay xét thấy tình cảm không còn, mâu thuẫn không thể khắc phục được, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Nguyễn Văn Đ.

Về con chung: Chị Trương Thị H xác nhận chị và anh Nguyễn Văn Đ có hai người con chung là cháu Nguyễn Mỹ V, sinh ngày 26/02/2015 và cháu Nguyễn Tú A, sinh ngày 07/7/2018, cả hai cháu đều khỏe mạnh và phát triển bình thường, hiện đang ở cùng với chị. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cả hai cháu và không yêu cầu anh Nguyễn Văn Đ phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung và công nợ chung: Chị Trương Thị H xác nhận trong thời gian chung sống vợ chồng chị không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đi với anh Nguyễn Văn Đ, trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, nhưng anh Đ vẫn không có văn bản trả lời ý kiến và không có mặt theo giấy triệu tập.

Về việc cung cấp tài liệu chứng cứ theo yêu cầu của Tòa án, nguyên đơn đã cung cấp đầy đủ các tài liệu chứng cứ về nhân thân, địa chỉ thường trú, chứng cứ chứng minh việc có đăng ký kết hôn và có con chung, chứng cứ chứng minh mâu thuẫn của vợ chồng, chứng cứ chứng minh về công việc và thu nhập cá nhân. Bị đơn không cung cấp tài liệu chứng cứ gì.

Đi với vụ án này Toà án không tiến hành hoà giải được về quan hệ hôn nhân, nuôi dưỡng chăm sóc con chung. Vì anh Nguyễn Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt không có lý do nên Toà án đã tiến hành lập biên bản về việc anh Đ vắng mặt để giải quyết theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật Tố tụng: Chị Trương Thị H có đơn yêu cầu Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai giải quyết vụ án “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” với anh Nguyễn Văn Đ (địa chỉ: Thôn P, xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai). Căn cứ vào Khoản 1 Điều 28; Điểm a Khoản 1 Điều 35; Điểm a Khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai. Bị đơn anh Nguyễn Văn Đ đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh là phù hợp với quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Trương Thị H và anh Nguyễn Văn Đ kết hôn tự nguyện và có đăng ký kết hôn ngày 01/7/2014 tại ủy ban nhân dân xã P, huyện B, tỉnh Lào Cai, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo trình bày của chị H đã được chính quyền địa phương xác nhận là đúng sự thực, tại phiên toà chị Trương Thị H vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn anh Nguyễn Văn Đ. Đối với anh Nguyễn Văn Đ vắng mặt tại phiên tòa, trong quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản Tố tụng theo quy định của pháp luật nhưng anh Đ không có mặt và cũng không có văn bản trả lời. Xét thấy mâu thuẫn của vợ chồng chị H anh Đ đã thực sự trầm trọng, anh chị đã sống ly thân không quan tâm đến nhau từ tháng 10 năm 2018 đến nay, nên việc chị H xin ly hôn anh Đ là có căn cứ. Vì vậy Hội đồng xét xử cần áp dụng Khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Trương Thị H ly hôn anh Nguyễn Văn Đ [3] Về con chung: Quá trình chung sống vợ chồng anh chị có hai người con chung cháu Nguyễn Mỹ V, sinh ngày 26/02/2015 và cháu Nguyễn Tú A, sinh ngày 07/7/2018, cả hai cháu đều khỏe mạnh và phát triển bình thường, hiện đang ở cùng với chị H. Tại phiên tòa chị H vẫn giữ nguyên yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu là Nguyễn Mỹ V và Nguyễn Tú A, chị không yêu cầu anh Đ cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Sau khi xem xét các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, lời khai của chị H, Hội đồng xét xử xét thấy cháu Nguyễn Mỹ V và cháu Nguyễn Tú A hiện đang ở cùng chị H. Trong quá trình giải quyết vụ án chị Trương Thị H đã cung cấp cho Tòa án chứng cứ chứng minh công việc chính của chị ở địa phương là buôn bán mức thu nhập bình quân từ 7.000.000 đồng đến 8.000.000 đồng/tháng. Anh Nguyễn Văn Đ không cung cấp cho Tòa án tài liệu, chứng cứ nào. Vì vậy để đảm bảo cuộc sống ổn định của các cháu, xuất phát từ lợi ích mọi mặt của các cháu Hội đồng xét xử xét thấy cần căn cứ Khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình giao cả hai cháu là cháu Nguyễn Mỹ V và cháu Nguyễn Tú A cho chị Trương Thị H tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, chị Trương Thị H không yêu cầu về nghĩa vụ cấp dưỡng tiền nuôi con chung, nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[4] Về tài sản chung và công nợ chung: Trong quá trình Tòa án giải quyết cũng như tại phiên toà chị Trương Thị H xác nhận vợ chồng chị không có tài sản chung, không vay nợ ai và cũng không cho ai vay nợ nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Trương Thị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Khoản 1 Điều 56; Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 4 Điều 147; Điểm b Khoản 2 Điều 227; Khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu phí, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Xử cho chị Trương Thị H ly hôn anh Nguyễn Văn Đ

2.Về con chung: Xử giao cháu Nguyễn Mỹ V, sinh ngày 26/02/2015 và cháu Nguyễn Tú A, sinh ngày 07/7/2018 cho chị Trương Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi các cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Anh Nguyễn Văn Đ không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Sau khi ly hôn anh Nguyễn Văn Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trương Thị H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai theo biên lai số 0009992 ngày 16/6/2020.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, Điều 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

221
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/HNGĐ-ST ngày 10/09/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:30/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bảo Thắng - Lào Cai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/09/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về