Bản án 30/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hụi

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÁNH LINH, TỈNH BÌNH T

BẢN ÁN 30/2020/DS-ST NGÀY 20/08/2020 VỀ TRANH CHẤP HỤI 

Ngày 20 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình T xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 396/2019/TL T-D ngày 30 tháng 12 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 45/2020/QĐXXST- DS ngày 06 tháng 7 năm 2020; Quyết định hoãn phiên tòa số: 31/2020/QĐXX T- DS ngày 04 tháng 8 năm 2020, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Kim T, sinh năm 1970; Nơi cư trú: Thôn S, xã G, huyện T, tỉnh Bình T.

2. Bị đơn: Bà Phạm Thị Mỹ H, sinh năm 1984 và ông Phạm Văn V, sinh năm 1979; Cùng Nơi cư trú: Thôn , xã G, huyện T, tỉnh Bình T; Người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Văn V là bà Phạm Thị Mỹ H. Theo văn bản ủy quyền ngày 19/02/2020.

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Ông Phan Thế Đ, sinh năm 1972; Nơi cư trú: Thô, xã G, huyện T, tỉnh Bình T. Người đại diện theo ủy quyền của ông Phan Thế Đ là bà Trần Thị Kim T. Theo văn bản ủy quyền ngày 31/12/2019.

Tại phiên tòa: Có mặt bà Trần Thị Kim T; Vắng mặt bà Phạm Thị Mỹ H (có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị Kim T đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Phan Thế Đ trình bày:

Trong khoảng thời gian từ ngày 20/01/2018 đến 25/9/2018, bà Trần Thị Kim T có tham gia chơi 02 dây hụi do bà Phạm Thị Mỹ H làm thủ. Cụ thể như sau:

- Tổ hụi thứ nhất mở ngày 20/01/2018 đến 25/9/2018 là mãn hụi. Tổ hụi này có 12 người chơi, mức hụi 1.000.0000đ/tháng, thực đóng 800.0000đ/tháng. Bà T tham gia chơi 01 chân hụi, đã thực đóng được 09 tháng tiền hụi tương ứng với 7.200.000 đồng. Nếu tính cả lãi là 9.000.000 đồng, bà T chưa lĩnh hụi.

- Tổ hụi thứ hai mở ngày 25/11/2018 đến 25/9/2019 là mãn hụi. Tổ hụi này có 15 người chơi, mức hụi 1.000.0000đ/tháng, thực đóng 800.0000đ/tháng. Bà T tham gia chơi 01 chân hụi, đã thực đóng được 11 tháng tiền hụi tương ứng với 8.800.000 đồng. Nếu tính cả lãi là 11.000.000 đồng, bà T chưa lĩnh hụi.

Như vậy bà Trần Thị Kim T có tham gia chơi hụi, đã thực đóng được số tiền 16.000.000 đồng. Bà T yêu cầu Tòa án tuyên buộc bà H phải trả số tiền là 20.000.000 đồng bao gồm cả gốc và lãi hụi. Bà T cung cấp cho Tòa án 02 “Giấy nhận hụi” đồng thời khẳng định chữ ký, chữ viết tại “Giấy nhận hụi” (dạng vở học sinh, kẻ ô ngang) là chữ ký, chữ viết của bà Phạm Thị Mỹ H.

Lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, bị đơn bà Phạm Thị Mỹ H đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Văn V trình bày:

Thống nhất toàn bộ lời khai của bà T về việc chơi hụi và đóng hụi. Tuy nhiên bà H không đồng ý trả tiền lãi hụi cho bà T vì bà H làm thủ hụi, chỉ hưởng tiền công hoa hồng thu tiền hụi giùm chứ tiền lãi hụi là do những người hốt hụi được hưởng. Đồng thời xác định hiện nay còn nợ bà T số tiền 16.000.000 đồng là tiền nợ hụi gốc. Bà H xác nhận nợ và có trách nhiệm liên đới cùng với ông Phạm Văn V trả cho bà T toàn bộ số tiền nêu trên.

Tòa án đã tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng hòa giải không thành. au khi hòa giải, nguyên đơn bà Trần Thị Kim T có đơn xin từ chối hòa giải.

Tại phiên tòa sơ thẩm:

- Nguyên đơn bà Trần Thị Kim T đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Phan Thế Đ trình bày: Bà T xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với khoản tiền lãi hụi tương đương với số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng). Xác nhận hiện nay bà H đã trả cho bà T số tiền 1.280.000 đồng. Bà T xác nhận yêu cầu Tòa án tuyên buộc bà H và ông Vinh phải có trách nhiệm liên đới trả cho bà T số tiền 14.720.000 đồng (Mười bốn triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng) là tiền nợ hụi gốc.

- Tại đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt bị đơn bà Thị Mỹ H đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của ông Phạm Văn V trình bày: Vì lý do bận công việc, bà H không thể đến tham gia phiên tòa do đó đề nghị Tòa án căn cứ vào lời khai của bà H trong quá trình giải quyết vụ án để giải quyết, xét xử vắng mặt.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình Thuận tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình T phát biểu việc kiểm sát tuân theo pháp luật: Về thủ tục tố tụng, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa tiến hành tố tụng đúng quy định; người tham gia tố tụng chấp hành pháp luật.

- Quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tuyên buộc vợ chồng bà Phạm Thị Mỹ H và ông Phạm Văn V phải có trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị Kim T và ông Phan Thế Đ số tiền 14.720.000 đồng là tiền nợ hụi gốc.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ đã được thẩm tra, xem xét tại phiên toà, căn cứ lời khai của các đương sự, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo đơn khởi kiện cũng như trong quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Trần Thị Kim T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà Phạm Thị Mỹ H, ông Phạm Văn V phải có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn tiền nợ hụi, do đó Tòa án xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp về hụi” được quy định tại khoản 3 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự; Bị đơn có nơi cư trú tại: Thôn , xã G, huyện T, tỉnh Bình T nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tánh Linh, tỉnh Bình T theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án đã tống đạt đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án cho các đương sự theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự; Tòa án đã tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận thống nhất với nhau về việc giải quyết vụ án nhưng hòa giải không thành. Sau khi hòa giải không thành, nguyên đơn bà Trần Thị Kim T có đơn từ chối hòa giải nên theo quy định tại khoản 4 Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc trường hợp không hòa giải được. Do đó, Tòa án mở phiên tòa để xét xử đối với vụ án.

Bị đơn không có yêu cầu phản tố, được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai, tại phiên tòa vắng mặt bị đơn nhưng có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét xử xét thấy việc vắng mặt bị đơn không ảnh hưởng đến nội dung và bản chất của vụ án do đó căn cứ khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn bà Trần Thị Kim T xin rút một phần yêu cầu khởi kiện đối với khoản tiền lãi hụi tương đương với số tiền 4.000.000 đồng. Xét việc thay đổi yêu cầu khởi kiện này của nguyên đơn là không vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, cùng một quan hệ pháp luật tranh chấp phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 5, khoản 2 Điều 71 và khoản 1 Điều 244 Bộ luật tố tụng dân sự, nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[3] Về nội dung vụ án:

3.1 Về yêu cầu trả tiền nợ hụi: Nguyên đơn bà Trần Thị Kim T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng bà Phạm Thị Mỹ H, ông Phạm Văn V phải có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn tổng cộng số tiền 14.720.000 đồng (Mười bốn triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng) là tiền nợ hụi. Nguyên đơn cung cấp cho Tòa án 02 “Giấy nhận hụi” thể hiện việc chơi hụi giữa nguyên đơn và bị đơn. Bị đơn xác định có nợ bà T số tiền nợ hụi, đồng thời có trách nhiệm cùng với ông V liên đới trả cho bà T toàn bộ số tiền nêu trên - Đây là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự.

3.2 Về nghĩa vụ trả nợ: Mặc dù “Giấy nhận hụi” do bà H viết, ký xác lập, ông V không tham gia xác lập nhưng biết rõ việc chơi hụi và vay tiền của bà H, do đó giao dịch này được xác lập trong thời kỳ hôn nhân, mục đích chơi hụi nhằm phục vụ cuộc sống gia đình nên vợ chồng bà H, ông V phải có trách nhiệm liên đới trong việc trả nợ hụi theo quy định tại Điều 27 và Điều 37 Luật hôn nhân gia đình.

[4] Về án phí: Do yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch trên số tiền phải trả cho nguyên đơn, đồng thời nguyên đơn được hoàn trả tiền tạm ứng án phí đã nộp theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào:- Khoản 2 Điều 5; khoản 3 Điều 26; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; khoản 2 Điều 71; khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228; khoản 2 Điều 92; khoản 1 Điều 147; khoản 1 Điều 244; Điều 271; khoản 1 Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Khoản 1 Điều 351; Điều 357; Điều 471 của Bộ luật dân sự năm 2015;

- Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Nghị định số 144/2006/NĐ-CP, ngày 27/11/2006 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường; Nghị định số 19/2019/NĐ-CP, ngày 19/02/2019 của Chính phủ quy định về họ, hụi, biêu, phường;

Tuyên xử:

1. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Kim T đối với khoản tiền lãi hụi tương đương với số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng).

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Trần Thị Kim T; Buộc bà Phạm Thị Mỹ H và ông Phạm Văn V phải có trách nhiệm liên đới trả cho bà Trần Thị Kim T và ông Phan Thế Đ số tiền 14.720.000 đồng (Mười bốn triệu bảy trăm hai mươi nghìn đồng) là tiền nợ hụi.

3. Về lãi suất chậm thi hành án: Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi thi hành án xong, bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất các bên thỏa thuận nhưng phải phù hợp với quy định của pháp luật; nếu không có thỏa thuận về mức lãi suất thì quyết định theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015.

4. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

5. Về án phí:

- Buộc bà Phạm Thị Mỹ H và ông Phạm Văn V phải nộp 736.000 đồng (bảy trăm ba mươi sáu nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm.

- Trả lại cho bà Trần Thị Kim T số tiền 500.000 đồng (năm trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0027218 ngày 30/12/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tánh Linh.

6. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (20/8/2020); Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

239
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2020/DS-ST ngày 20/08/2020 về tranh chấp hụi

Số hiệu:30/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tánh Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về