TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 30/2020/DS-PT NGÀY 28/02/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CẦM CỐ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, VAY TÀI SẢN
Ngày 28 tháng 02 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau xét xử phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số 328/2019/TLPT-DS ngày 30 tháng 12 năm 2019.
Do bản án dân sự sơ thẩm số: 48/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình bị kháng cáo.
Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2020/QĐ-PT ngày 13 tháng 01 năm 2020, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Ông Lê Song C – sinh năm 1972
Địa chỉ: Ấp 6, xã Thới B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau.
Người đại diện theo ủy quyền: Ông Mai Thiên T – sinh năm 1977 (có mặt).
Địa chỉ: Khóm 1, thị trấn Thới B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn V – sinh năm 1971 (có mặt).
Địa chỉ: Khóm 8, thị trấn Thới B, huyện Thới B, tỉnh Cà Mau.
Người kháng cáo: Bị đơn là ông Nguyễn Văn V.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn là ông Mai Thiên T trình bày:
Do ông C và ông V có quan hệ quen biết nên trước đây nhiều lần ông C cho ông V vay tiền, đến ngày 13/5/2019 ông V còn nợ ông tổng số tiền vốn và lãi là 140.000.000 đồng nên ông V thỏa thuận viết giấy cố đất cho ông với diện tích 10 công tầm lớn, với giá 140.000.000 đồng, thời gian cố là 03 năm nhưng ông cho ông V thuê lại mỗi năm với giá 15.000.000 đồng. Từ khi nhận cầm cố đến nay ông V quản lý phần đất cầm cố nhưng không trả tiền thuê đất. Dó đó, ông C khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng cố đất lập ngày 13/5/2019, yêu cầu ông V thanh toán cho ông C số tiền 140.000.000 đồng, tiền lãi 6.990.000 đồng. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông Thơ đại diện cho ông C chỉ yêu cầu ông V thanh toán số tiền vốn 132.000.000 đồng, không yêu cầu thanh toán lãi.
Bị đơn ông Nguyễn Văn V trình bày: Vào khoảng tháng 10/2018 âm lịch ông V có vay của ông C 30.000.000 đồng, mỗi ngày góp lãi 10.000 đồng/1.000.000 đồng, thực tế ông V chỉ nhận từ ông C số tiền 28.500.000 đồng, còn lại 1.500.000 đồng dùng để góp tiền lãi trước cho ông C 05 ngày. Sau đó ông V thanh toán cho ông C được 20.000.000 đồng, còn nợ lại 10.000.000 đồng. Khoảng sau 02 tháng kể từ thời gian trên, ông C tiếp tục cho ông V vay nhiều lần với số tiền vay tổng cộng có lúc lên đến 83.000.000 đồng. Các lần nhận tiền vay của ông C do ông V nhận trực tiếp từ ông C, có một số lần ông V nhờ ông Năm Khị là người chạy xe honda khách nhận tiền dùm ông. Việc nhận tiền vay giữa ông V và ông C chỉ do tin tưởng nhau, không có làm biên nhận. Do ông V không có tiền đóng lãi và trả vốn, nên ông C tính vốn và lãi là 140.000.000 đồng, trong đó số tiền vốn là 53.000.000 đồng. Do còn nợ số tiền vay vốn và lãi là 140.000.000 đồng nên ông C yêu cầu ông V viết hợp đồng cầm cố đất vào ngày 13/5/2019, ông V thừa nhận đã viết và ký tên trong hợp đồng cố đất cho ông C, mục đích ông viết giấy cố đất để cho ông C đi tìm em vợ vay tiền, còn thực tế ông V không nhận 140.000.000 đồng từ ông C mà số tiền trong hợp đồng cố đất là tiền nợ vốn và lãi. Nay ông V đồng ý trả cho ông C 53.000.000 đồng và thanh toán tiền lãi theo mức lãi theo quy định của pháp luật.
Tại bản án dân sự sơ thẩm số 48/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình đã quyết định:
Chấp nhận toàn của Lê Song C đối với ông Nguyễn Văn V. Tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Song C và ông Nguyễn Văn V là vô hiệu (theo giấy cố đất lập ngày 13/5/2019).
Buộc ông Nguyễn Văn V có nghĩa vụ thanh toán cho ông Lê Song C số tiền 132.000.000 đồng.
Ngoài ra, án sơ thẩm còn tuyên về án phí, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo theo luật định.
Ngày 26/11/2019 bị đơn là ông Nguyễn Văn V kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng ông V chỉ đồng ý trả cho ông C vốn là 53.000.000 đồng. Yêu cầu điều chỉnh lãi suất theo quy định của pháp luật, chấp nhận hủy hợp đồng cố đất giữa ông V và ông C.
Tại phiên tòa phúc thẩm ông V giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.
Viện kiểm sát nhân tỉnh Cà Mau đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của ông V, giữ nguyên bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Xét kháng cáo của ông Nguyễn Văn V, Hội đồng xét xử xét thấy: Ông V thừa nhận đã vay tiền của ông C nhiều lần nhưng không có khả năng trả vốn nên ông C tính vốn và lãi là 140.000.000 đồng, ông V cho rằng trong số tiền nợ của ông C, ông chỉ vay của ông C 53.000.000 đồng tiền vốn, còn lại là tiền lãi nhưng ông C không thừa nhận. Ông V không có chứng cứ chứng minh số tiền vốn là 53.000.000 đồng nhưng ông V thừa nhận ông đã viết và ký tên hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất cho ông C ngày 13/5/2019 với số tiền là 140.000.000 đồng. Như vậy tại thời điểm ông V viết giấy cố đất cho ông C, ông V đã thừa nhận còn nợ ông C 140.000.000 đồng nhưng không thể hiện cụ thể số tiền vốn và số tiền lãi mà ông V nợ ông C. Hiện nay, ông C cho rằng trong số tiền 140.000.000 đồng ông V cố đất cho ông thì ông V nợ ông số tiền vốn là 132.000.000 đồng còn lại 8.000.000 đồng là tiền lãi. Do ông V không có chứng cứ chứng minh số tiền vốn ông nợ của ông C là 53.000.000 đồng nên không có cơ sở điều chỉnh lãi theo yêu cầu của ông V. Tại phiên tòa sơ thẩm, ông C yêu cầu ông V trả số tiền vốn là 132.000.000 đồng, không yêu cầu ông V trả lãi nên cấp sơ thẩm buộc ông V trả cho ông C 132.000.000 đồng là có cơ sở.
[2] Tại phiên tòa phúc thẩm, ông V không có chứng cứ gì mới để chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông V.
[3] Xét đề nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cà Mau tại phiên tòa là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[4] Về án phí phúc thẩm: Do không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông V nên ông V phải chịu án phí theo quy định.
[5] Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khoản 1 Điều 308 của Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/NQ-UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Văn V. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 48/2019/DS-ST ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình.
Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Lê Song C đối với ông Nguyễn Văn V.
Tuyên bố hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất giữa ông Lê Song C và ông Nguyễn Văn V theo giấy cố đất lập ngày 13/5/2019 là vô hiệu.
Buộc ông Nguyễn Văn V có nghĩa vụ thanh toán cho ông Lê Song C số tiền 132.000.000 đồng (một trăm ba mươi hai triệu đồng).
Kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án cho đến khi thi hành án xong, tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.
Án phí dân sự sơ thẩm: Ông V phải nộp phải nộp 6.600.000 đồng. Ông C không phải chịu án phí. Ngày 02/7/2019, ông C nộp tạm ứng án phí số tiền 3.500.000 đồng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình theo biên lai thu số 0010516, ông C được nhận lại.
Án phí dân sự phúc thẩm: Ông Nguyễn Văn V phải chịu 300.000 đồng. Đã qua, ông V đã dự nộp 300.000 đồng theo biên lai thu số 0010756 ngày 28/11/2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thới Bình, tỉnh Cà Mau được chuyển thu.
Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.
Bản án 30/2020/DS-PT ngày 28/02/2020 về tranh chấp hợp đồng cầm cố quyền sử dụng đất, vay tài sản
Số hiệu: | 30/2020/DS-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/02/2020 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về