TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐÔNG HÒA, TỈNH PHÚ YÊN
BẢN ÁN 30/2019/HSST NGÀY 13/11/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY
Trong ngày 13 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Đông Hòa, tỉnh Phú Yên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 29/2019/TLST-HS ngày 25 tháng 10 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 29/2019/QĐXXST-HS ngày 28 tháng 10 năm 2019 đối với các bị cáo:
1. Trần Tứ N (tên gọi khác: Sáu N) – sinh năm 1977; nơi cư trú: Khu phố E, thị trấn H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 09/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Trần N – sinh năm 1956 (mất tích) và bà Đàm Thị N – sinh năm 1957 (chết); vợ: bà Phạm Thị Hồng H – sinh năm 1990; có 02 con, con lớn sinh năm 2017; con nhỏ sinh năm 2019; Tiền án; Tiền sự: Không. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/7/2019, có mặt.
2. Nguyễn Khắc H (tên gọi khác: H Cướp) – sinh năm 1986; nơi cư trú: 18 - L, phường A, thành phố T, tỉnh Phú Yên; nghề nghiệp: không; trình độ văn hoá: 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn M – sinh năm 1963 và bà Nguyễn Thị G – sinh năm 1966; Tiền án: Ngày 27/3/2017 bị Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 08/11/2017; Tiền sự: Ngày 26/12/2013 bị Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy, đã chấp hành xong; Ngày 06/01/2017, bị Công an phường Phú Thạnh thành phố Tuy Hòa xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản, đã nộp ngày 12/8/2019. Bị cáo bị tạm giam từ ngày 25/7/2019, có mặt.
* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:
1. Anh Nguyễn Hữu T – sinh năm 1995; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Khu phố B, thị trấn H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên.
2. Anh Nguyễn Văn T – sinh năm 1991; Vắng mặt.
3. Anh Nguyễn Ngọc G – sinh năm 1998; Vắng mặt.
Cùng cư trú: Thôn P, xã H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên.
* Người làm chứng:
1. Chị Nguyễn Thị H – sinh năm 1970; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Thôn P, xã H, Huyện T, tỉnh Phú Yên.
2. Anh Phạm Văn N – sinh năm 1983; Vắng mặt.
Nơi cư trú: Thôn P, xã H, Huyện P, tỉnh Phú Yên.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng 06 giờ 30 phút ngày 25/7/2019, Trần Tứ N điều khiển xe mô tô biển số 78H8-1722 chở Nguyễn Khắc H đến cây xăng H thuộc khu phố A, thị trấn H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên gửi lại xe mô tô rồi cả hai đón xe khách đến thành phố N, tỉnh Khánh Hòa để mua ma túy sử dụng. Khi vào thành phố N, N gặp một người đàn ông (chưa rõ lai lịch) mua một bịch ma túy với giá 2.000.000 đồng; H gặp một người phụ nữ (chưa rõ lai lịch) mua một bịch ma túy với giá 2.000.000 đồng. Sau đó N và H đón xe khách quay về cây xăng H để lấy xe mô tô đi về nhà thì bị Công an Huyện Đông Hòa kiểm tra, bắt quả tang, thu giữ hai bịch ma túy.
Theo Kết luận giám định số 140/GĐ-PC09 ngày 26/7/2019 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Phú Yên kết luận: Tinh thể màu trắng trong bịch nilon thu giữ trên người Trần Tứ N là ma túy loại heroine có khối lượng 3,407 gam; trên người Nguyễn Khắc H là ma túy loại heroine có khối lượng 3,432 gam;
Vật chứng vụ án:
- 3,273 gam ma túy loại heroine thu giữ của N còn lại sau giám định;
- 3,295 gam ma túy loại heroine thu giữ của H còn lại sau giám định;
- 01 chai nhựa màu trắng cao 18 cm, đường kính 5,5 cm có nắp đậy gắn một nỏ thủy tinh và một ống nhựa màu đen; 01 quẹt khò tự chế, trong đó phần nhựa cao 4,3 cm được gắn ống kim loại chiều cao 06 cm; 01 cái kéo có chiều dài 16,3 cm, trong đó phần lưỡi bằng kim loại dài 90 cm, phần cán bằng nhựa màu xanh dài 7,3 cm; 07 ống nhựa màu trắng (loại ống hút nước) đường kính 0,5cm gồm: 04 ống nhựa cắt trống hai đầu và 03 ống nhựa hàn kín một đầu, ống dài nhất 2,5 cm, ống ngắn nhất 02 cm;
- 01 điện thoại di động màu đỏ đen, có chữ itel, bên trong có gắn sim số 0932543654;
- 01 xe mô tô biển số 78H8-1722; Tại bản cáo trạng số 27/CT-VKSĐH ngày 24/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Đông Hoà truy tố bị cáo Trần Tứ N, Nguyễn Khắc H về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.
Tại phiên tòa: Các bị cáo khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như cáo trạng đã truy tố và trình bày hoàn cảnh gia đình khó khăn, xin Tòa xử mức án thấp.
Kiểm sát viên luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như cáo trạng. Lúc 12 giờ 00 phút ngày 25/7/2019, tại khu phố A, thị trấn H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên, Công an Huyện Đông Hòa kiểm tra bắt quả tang Trần Tứ N, Nguyễn Khắc H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên người N 3,407 gam heroine; H 3,432 gam heroine, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo; điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo H; xử phạt bị cáo Trần Tứ N từ 09 tháng đến 12 tháng tù; bị cáo H từ 15 tháng đến 18 tháng tù.
Vật chứng vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử trả lại cho bị cáo H 01 điện thoại di động màu đỏ đen, có chữ itel, bên trong có gắn sim số 0932543654 là tài sản hợp pháp của bị cáo H; trả lại cho bị cáo N 01 xe mô tô biển số 78H8-1722; tịch thu tiêu hủy số vật chứng còn lại.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
Các chứng cứ, tài liệu có tại hồ sơ vụ án do Cơ quan điều tra thu thập đúng trình tự thủ tục quy định tại Bộ luật tố tụng hình sự, các bị cáo không khiếu nại gì đối với các quyết định, văn bản tố tụng ở giai đoạn điều tra nên đều là chứng cứ hợp pháp.
Lời khai nhận tội của các bị cáo tại Cơ quan điều tra và tại phiên toà phù hợp với nhau, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng, phù hợp với các chứng cứ, tài liệu khác có tại hồ sơ vụ án. Vì vậy, Hội đồng xét xử đủ cơ sở kết luận: Lúc 12 giờ 00 phút ngày 25/7/2019, tại khu phố A, thị trấn H, Huyện Đ, tỉnh Phú Yên, Công an Huyện Đông Hòa kiểm tra, bắt quả tang Trần Tứ N, Nguyễn Khắc H có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, thu giữ trên người N 3,407 gam heroine; H 3,432 gam heroine.
Hành vi của các bị cáo đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân Huyện Đông Hoà truy tố là có căn cứ.
Hành vi của các bị cáo rất nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về việc cất giữ, quản lý chất ma túy. Tệ nạn ma túy đang là hiểm họa lớn đối với toàn xã hội, gây tác hại xấu cho sức khỏe con người, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh nhiều loại tội phạm khác.
Bị cáo H có nhân thân xấu: Ngày 27/3/2017, bị Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa tuyên phạt 06 tháng tù về tội Trộm cắp tài sản, chấp hành xong ngày 08/11/2017; Ngày 26/12/2013, bị Chủ tịch UBND thành phố Tuy Hòa ra Quyết định áp dụng biện pháp đưa vào cơ sở chữa bệnh, thời hạn 24 tháng về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy; Ngày 06/01/2017, bị Công an phường P, thành phố Tuy Hòa xử phạt hành chính số tiền 1.500.000 đồng về hành vi Trộm cắp tài sản. Bị cáo H phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Vì vậy, cần phải có hình phạt nghiêm khắc tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện. Với tính chất, mức độ phạm tội ngang nhau nhưng nhân thân của bị cáo H xấu nên mức hình phạt phải cao hơn bị cáo N.
Đối với bị cáo N có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự nên hình phạt được áp dụng mức thấp hơn so với bị cáo H là phù hợp.
Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã thật thà khai báo và tỏ ra ăn năn hối cải nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự khi quyết định hình phạt.
Về vật chứng: Số vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện Đông Hòa và Chi cục thi hành án dân sự Huyện Đông Hòa có 01 điện thoại di động màu đỏ đen, có chữ itel, bên trong có gắn sim số 0932543654 là tài sản hợp pháp của bị cáo H và bị cáo H không sử dụng liên lạc trong quá trình thực hiện hành vi phạm tội nên trả lại cho bị cáo H; trả lại cho bị cáo N 01 xe mô tô biển số 78H8-1722. Số vật chứng còn lại không còn giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.
Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
Tuyên bố bị cáo Trần Tứ N, Nguyễn Khắc H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.
Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo N, H; Áp dụng điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự đối với bị cáo H.
Xử phạt bị cáo Trần Tứ N 01 (một) năm tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giam 25/7/2019.
Xử phạt bị cáo Nguyễn Khắc H 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời gian tù tính từ ngày tạm giam 25/7/2019.
* Về vật chứng: Áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự; số vật chứng theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 29/10/2019 giữa Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Huyện Đông Hòa và Chi cục thi hành án dân sự Huyện Đông Hòa được xử lý như sau:
- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Khắc H 01 điện thoại di động màu đỏ đen, có chữ itel, bên trong có gắn sim số 0932543654;
- Trả lại cho bị cáo Trần Tứ N 01 xe mô tô biển số 78H8-1722;
- Tịch thu tiêu hủy những vật chứng còn lại.
* Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức án phí, lệ phí Tòa án, các bị cáo Trần Tứ N, Nguyễn Khắc H mỗi bị cáo phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.
Bị cáo có mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
Bản án 30/2019/HSST ngày 13/11/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy
Số hiệu: | 30/2019/HSST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thị xã Đông Hòa - Phú Yên |
Lĩnh vực: | Hình sự |
Ngày ban hành: | 13/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về