Bản án 30/2019/HS-ST ngày 08/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỒNG PHÚ, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 30/2019/HS-ST NGÀY 08/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Trong ngày 08 tháng 7 năm 2019, tại Hội trường Tòa án nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 32/2019/TLST-HS ngày 29 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2019/QĐXXST-HS ngày 19 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Cháu Dẫn D, sinh năm 1980, tại Đồng Nai; Nghề nghiệp: Thợ đá hoa cương; Trình độ văn hoá: 3/12; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: Không; Quốc tịch:Việt Nam; con ông Cháu A S (đã chết) và con bà Tsú Sám M, sinh năm 1937; Nơi cư trú: ấp Tân Lập 2, xã Cây Gáo, huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai;

Tiền án:

+ Ngày 28/8/2003, bị TAND huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai tuyên phạt 36 tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Chưa chấp hành xong bản án (chưa chấp hành án phí).

+ Ngày 29/7/2010, bị TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai tuyên phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 30/8/2010, bị TAND huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai tuyên phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

+ Ngày 25/11/2010, bị TAND huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù, tổng hợp hình phạt với Bản án số 333 ngày 29/7/2010 của TAND thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai và Bản án số 129 ngày 30/8/2010 của TAND huyện Trảng Bom, tỉnh Đồng Nai buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 06 năm 06 tháng tù, chấp hành xong hình phạt tù ngày 27/01/2016.

Tiền sự: không;

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 23/01/2019 đến nay tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đồng Phú, có mặt tại phiên tòa.

* Người bị hại: Chị Hồ Thị Th, sinh năm 1991 (có mặt)

Nơi ĐKHKTT: ấp Tân Hà, xã Tân Tiến, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước

Nơi ở: Kp Tân Liên, TT Tân Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước

*Người có quyền lợi,nghĩa vụ liên quan:

Anh Mã Thành Tr, sinh năm 1984 (vắng mặt)

Địa chỉ: ấp Trung Hưng, xã Xuân Trường, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai

Nguyễn Thành L, sinh năm 1972 (vắng mặt)

Địa chỉ: số 163/126A, Kp 4, P. Hòa Bình, Tp Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai

Nơi ở: Kp Tân Ba, P. Thái Hòa, TX Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Do không có tiền tiêu xài nên Nguyễn Văn Ch và Cháu Dẫn D bàn bạc nhau đi trộm cắp tài sản. Ch dùng xe mô tô của Ch (không rõ biển kiểm soát) chở Dậu đến khu vực thị trấn Tân Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước ngủ tại một vườn điều (không rõ địa chỉ). Khoảng 00 giờ 30 phút ngày 23/01/2019, Ch và D để xe tại vườn điều rồi đi bộ đến nhà chị Hồ Thị Th tại tổ 2, khu phố Tân Liên, thị trấn Tân Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Do chị Th chỉ móc cửa trong chứ không khóa nên Ch dùng tay thò vào trong lấy ổ khóa rồi mở cửa đi vào nhà chị Th. Ch lấy được 01 chiếc điện thoại Iphone 7 Plus màu trắng – đỏ, quay ra đưa cho D cầm và nói D cùng Ch vào khiêng xe mô tô tô hiệu Honda Airblade BKS: 93M1 – 273.06 để trong nhà (đang khóa cổ) ra ngoài thì D đồng ý. Ch và D khiêng xe mô tô trên ra ngoài, phá khóa cổ xe, tháo bung yên xe ra thì thấy trong cốp có 02 nhẫn vàng, 01 dây chuyền vàng, 01 móng (không rõ loại) bọc vàng, 01 chiếc hoa tai hình chiếc lá bằng vàng, 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu xanh, 01 con heo đất bên trong có 9.000.000 đồng, 03 chiếc ví da, bên trong có 1.000.000 đồng và một số giấy tờ của chị Th. Sau đó, Ch điều khiển xe mô tô của Ch và D điều khiển xe mô tô lấy trộm được đi về hướng tỉnh Bình Dương rồi gửi lại nhà bạn tên Nguyễn Thành L tại khu phố Tân Ba, phường Thái Hòa, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Sau khi phát hiện bị mất tài sản, chị Th đã trình báo Công an thị trấn Tân Phú. Cùng ngày, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Phú đã mời Cháu Dẫn D về làm việc. Qua làm việc, D đã khai nhận toàn bộ hành vi cùng Nguyễn Văn Ch thực hiện việc trộm cắp tài sản của chị Hồ Thị Th như trên.

Ngày 18/4/2019, Do Cháu Dẫn D nhờ Mã Thành Tr (bạn của D) khắc phục hậu quả cho hành vi phạm tội của mình nên Tr đã giao cho Hồ Thị Th số tiền 10.000.000 đồng.

Theo Kết luận giám định số 1390 ngày 13/3/2019 của Phân viện Khoa học hình sự tại Tp.HCM kết luận:

- 01 nhẫn tròn bằng kim loại màu vàng, có ký hiệu “KIM*HUONG. 2C.9999.VTĐT”, khối lượng: 7,5014 gam được niêm phong gửi giám định có thành phần kim loại vàng (Au), hàm lượng vàng (Au): 99,69%.

- 01 (một) nhẫn tròn bằng kim loại màu vàng, có lồng sợi dây màu đen, khối lượng: 0,7589 gam, được niêm phong gửi giám định có thành phần kim loại vàng (Au), bạc (Ag); hàm lượng vàng (Au) 62,15%.

- 01 (một) dây chuyền (dạng vòng đeo tay) bằng kim loại màu vàng, khối lượng: 5,1257 gam được niêm phong gửi giám định có thành phần kim loại vàng (Au), bạc (Ag), hàm lượng vàng (Au) là 60,47%.

- 01 (một) móng (chưa rõ loại) được bọc bằng kim loại màu vàng khối lượng cả móng: 1,2085 gam được niêm phong gửi giám định có thành phần kim loại vàng (Au), đồng (Cu), hàm lượng vàng (Au) là: 37,02%.

Theo kết luận định giá tài sản số 08 ngày 24/01/2019, của Hội đồng định giá tố tụng huyện Đồng Phú kết luận:

- 01 (một) xe mô tô, BKS: 93M1 – 273.06, hiệu Honda, loại Airblade, màu bạc - đen - xám có giá trị là: 21.500.000 đồng.

- 01 (một) điện thoại di động hãng Apple, model 7 Plus 32Gb có giá trị là: 9.500.000 đồng.

- 01 (một) điện thoại di động hiệu Nokia, model: 1280 có giá trị là: 150.000 đồng.

Tổng giá trị tài sản sau định giá là: 31.150.000 đồng.

Tại kết luận định giá tài sản số 27 ngày 10/4/2019 của Hội đồng định giá tố tụng huyện Đồng Phú kết luận:

- 01 (một) nhẫn tròn bằng vàng 99,69%, vàng 24K, có trọng lượng 02 chỉ có giá trị là: 7.168.000 đồng.

- 01 (một) nhẫn tròn bằng vàng, 62,15%, vàng 14K, có lồng sợi dây màu đen, có trọng lượng 0,19 chỉ, có giá trị là: 318.045 đồng.

- 01 (một) dây chuyền (dạng vòng đeo tay) bằng vàng 60,47%, vàng 14K, có trọng lượng 1,36 chỉ, có giá trị là: 2.727.480 đồng.

- 01 (một) móng bọc vàng 37,02%, vàng 10K, có trọng lượng 0,29 chỉ, có giá trị là: 405.681 đồng.

Tng giá trị tài sản sau định giá là: 10.682.206 đồng.

Tại Bản cáo trạng số 37/CT-VKS ngày 27/5/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước đã truy tố bị cáo Cháu Dẫn D về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước đề nghị Hội đổng xét xử áp dụng các điểm c, g khoản 2, Điều 173, điểm b, s khoản 1 Điều 51, các Điều 50, 58 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo Cháu Dẫn D từ 04 năm đến 05 năm tù.

Trong phần tranh luận, sau khi nghe đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước trình bày lời luận tội và kết luận về vụ án, bị cáo Cháu Dẫn D không có tranh luận gì về phần tội danh, mức hình phạt và các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ.

Người bị hại Hồ Thị Th không có ý kiến tranh luận, không yêu cầu bị cáo Cháu Dẫn D bồi thường thiệt hại thêm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Tn cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Tại phiên tòa, bị cáo Cháu Dẫn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.Xét thấy lời khai nhận tội của bị cáo là phù hợp với lời khai của người bị hại, bản kết luận giám định; phù hợp với các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án và được Hội đồng xét xử thẩm tra công khai tại phiên tòa. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Do muốn có tiền tiêu xài, vào ngày 23/01/2019, Cháu Dẫn D đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của chị Hồ Thị Th tại khu phố Tân Liên, thị trấn Tân Phú, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 51.832.206 đồng. Bị cáo Cháu Dẫn D đã nhiều lần bị kết án về các tội chiếm đoạt tài sản với tình tính tái phạm, tái phạm nguy hiểm, chưa được xóa án tích, nay lại tiếp tục phạm tội, là tái phạm nguy hiểm; giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 51.832.206 đồng nên hành vi của bị cáo Cháu Dẫn D đã thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội Trộm cắp tài sản với tình tiết định khung quy định tại các điểm c, g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017.

Hành vi mà bị cáo Cháu Dẫn D thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của người khác, gây mất trật tự trị an, ảnh hưởng đến đời sống lành mạnh trong cộng đồng dân cư.

Xét tính chất và mức độ của hành vi phạm tội mà bị cáo Cháu Dẫn D đã thực hiện là rất nghiêm trọng, khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức và làm chủ được hành vi của mình. Bị cáo nhận thức được và buộc phải nhận thức được hành vi lợi dụng người bị hại vắng nhà lén lút trộm cắp tài sản của người bị hại là hành vi trái pháp luật và bị pháp luật nghiêm trị. Song vì động cơ tư lợi cá nhân, muốn có tiền tiêu xài nhưng lười biếng lao động, xem thường pháp luật, xem thường quyền sở hữu tài sản của người khác nên bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội như đã phân tích ở trên. Xét cần áp dụng mức hình phạt chính là hình phạt tù có thời hạn và áp dụng khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Cháu Dẫn D hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Cháu Dẫn D mức mới có tác dụng răn đe, giáo dục bị cáo và phòng ngừa chung.

[2] Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Cháu Dẫn D đã thành khẩn khai báo có thái độ ăn năn hối cải; sau khi phạm tội đã tác động đến bạn bè, gia đình bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả cho người bị hại. Đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[3] Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước truy tố bị cáo Cháu Dẫn D về tội Trộm cắp tài sản theo quy định tại khoản điển c, g khoản 2 Điều173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 là có căn cứ. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đồng Phú về phần hình phạt, các tình tiết tăng nặng giảm nhẹ đối với bị cáo như trên là phù hợp nên được chấp nhận.

[4]. Trách nhiệm dân sự: Tại phiên tòa, người bị hại Hồ Thị Th không có yêu cầu thêm về phần bồi thường thiệt hại nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Đi với đối tượng Nguyễn Văn Ch là người cùng thực hiện tội phạm với D, quá trình điều tra, Cơ quan CSĐT Công an huyện Đồng Phú chưa làm việc được với Ch, tách ra xác minh, xử lý sau nên Hội đổng xét xử không xem xét xử lý trong vụ án này.

Đi với Nguyễn Thành L khi cho bị cáo Cháu Dẫn D gửi xe mô tô, L không biết đây là tài sản do phạm tội mà có nên Hội đổng xét xử không xem xét xử lý.

Xử lý vật chứng: Các vật chứng cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đồng Phú đã xử lý nên Hội đồng xét xử không xem xét xử lý lại.

Vật chứng là 01 kìm bằng kim loại màu trắng, cán bọc nhựa màu vàng – đen, 01 kéo bằng kim loại màu trắng, cán bọc nhựa màu đen, 01 túi nhựa màu đen, bên trong có 11 dụng cụ dùng để mở khóa đã thu giữ không có giá trị sử dụng nên cần tuyên tịch thu tiêu hủy theo quy định tại các điểm a, c khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vt chứng là số tiền 3.095.000 đồng đã thu giữ chứng minh được có 2.500.000 đồng là tiền do phạm tội mà có và 595.000 đồng tài sản riêng của bị cáo nên cần tuy tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.500.000 đồng và trả lại cho bị cáo Cháu Dẫn D số tiền 595.000 đồng theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[5]. Án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo Cháu Dẫn D phải nộp theo quy định tại Điều 135 Bộ luật hình sự và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2015 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu miễn giảm nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Cháu Dẫn D phạm tội “Trộm cắp tài sản”

Căn cứ vào các điểm c, g khoản 2 Điều 173, điểm s khoản 1 Điều 51, các Điều 50, 58 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bị cáo Cháu Dẫn D 04 (bốn) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo Cháu Dẫn D để tạm giam là ngày 23/01/2019.

Căn cứ khoản 5 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 xử phạt bổ sung bị cáo Cháu Dẫn D số tiền 20.000.000 đồng.

2. Xử lý vật chứng:

Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự tuyên:

- Tịch thu tiêu hủy 01 kìm bằng kim loại màu trắng, cán bọc nhựa màu vàng – đen, 01 kéo bằng kim loại màu trắng, cán bọc nhựa màu đen, 01 túi nhựa màu đen, bên trong có 11 dụng cụ dùng để mở khóa;

- Tịch thu nộp ngân sách nhà nước số tiền 2.500.000 đồng

- Trả lại cho bị cáo Cháu Dẫn D số tiền 595.000 đồng.

3. Án phí: Bị cáo Cháu Dẫn D phải nộp là 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo Cháu Dẫn D, người bị hại Hồ Thị Th có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Mã Thành Tr, Nguyễn Thành L có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

279
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HS-ST ngày 08/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đồng Phú - Bình Phước
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 08/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về