Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

A ÁN NHÂN DÂN QUẬN HỒNG BÀNG, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 30/2019/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 08 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 117/2019/TLST-HNGĐ ngày 08-4-2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 27/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 05-7-2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 19/2019/QĐST-HNGĐ ngày 23-7-2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị TTH; địa chỉ: Xóm 2, thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Hải Dương; có mặt;

Bị đơn: Anh NTT; địa chỉ: Số 73/3 D, phường E, quận F, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo Đơn khởi kiện đề ngày 28-3-2019, được bổ sung bằng lời khai tại Bản tự khai ngày 08-4-2019 và tại phiên tòa, nguyên đơn trình bày:

Chị TTH và anh NTT xây dựng gia đình với nhau do hai bên tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường E, quận F, thành phố Hải Phòng, theo Giấy chứng nhận kết hôn số 01/2014 ngày 06-01-2014. Trong quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, xung đột. Nguyên nhân chính là do bất đồng quan điểm sống và tính cách, vợ chồng thường xuyến đánh cãi nhau. Hai bên đã không còn tình cảm, trách nhiệm với nhau và đã sống ly thân được khoảng 03 năm nay. Nay thấy tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng không thể đoàn tụ nên chị TTH đề nghị Tòa án nhân dân quận Hồng Bàng giải quyết cho chị được ly hôn anh NTT theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Chị TTH và anh NTT có 01 con chung là G, sinh ngày 08-5-2014, hiện chị TTH đang trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, chị TTH có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi. Việc cấp dưỡng nuôi con chung, hai bên tự th a thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị TTH đề nghị để hai bên tự th a thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình thu lý và giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh NTT đều không ctại Tòa án và cũng không gửi bất cứ văn bản nào đến Tòa án thể hiện quan điểm, yêu cầu của mình về việc chị TTH xin ly hôn và yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung.

Kim sát viên đại diện Viện Kiểm sát nhân dân quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng phát biểu ý kiến về việc tuân theo Pháp luật tố tụng của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, Thư ký tòa án và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án như sau:

Thm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về: Thẩm quyền giải quyết vụ án, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp, tư cách của những người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, chuyển hồ sơ cho Viện Kiểm sát nghiên cứu.

Nguyên đơn chấp hành yêu cầu của Tòa án. Bị đơn không chấp hành yêu cầu của Tòa án.

Về việc giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của ban Thường vụ Quốc hội; xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Chị TTH được ly hôn anh NTT; về con chung: Giao 01 con chung là G, sinh ngày 08-5-2014 cho chị TTH trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con trưởng thành, đủ 18 tuổi hoặc khi có quyết định khác theo quy định của pháp luật. Việc cấp dưỡng nuôi con chung: Chị TTH đề nghị Toà án để hai bên tự thoả thuận, không yêu cầu Toà án giải quyết nên không đặt ra để giải quyết; về tài sản chung: Chị TTH đề nghị được tự th a thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra để giải quyết; về án phí dân sự sơ thẩm: Chị TTH phải nộp 300.000đồng án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra, xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả thảo luận, Hội đồng xét xử nhận định:

1 Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã tống đạt hợp lệ cho các văn bản tố tụng cho các đương sự. Bị đơn anh NTT không có yêu cầu phản tố. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt l n thứ hai mà không có lý do. Bởi vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt đối với bị đơn là phù hợp với quy định tại Điều 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

2 Về hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa chị TTH và anh NTT được xác lập trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn nên là hôn nhân hợp pháp.

3 Về căn cứ cho ly hôn:

Chị TTH có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn theo Điều 51 Luật Hôn nhân và gia đình.

Chị TTH cho rằng vợ chồng không còn tình cảm với nhau; đã sống ly thân, không còn trách nhiệm với nhau. Do đó, chị TTH vẫn kiên quyết giữ nguyên yêu cầu của mình về việc đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh NTT là có cơ sở và phù hợp với các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án.

Hi đồng xét xử thấy rằng trong quá trình giải quyết vụ án, anh NTT không đến Tòa án để giải quyết, không tham gia hòa giải và tham gia tố tụng tại phiên tòa để bảo vệ quyền lợi cho mình. Như vậy, chứng tỏ bản thân anh NTT cũng không mong muốn hòa giải để vợ chồng đoàn tụ.

Hi đồng xét xử thấy rằng: Cuộc sống thực tế của vợ chồng có mâu thuẫn và đã sống ly thân với nhau không ai quan tâm tới ai là đúng với trình bày của nguyên đơn và phù hợp với các Biên bản điều tra xác minh tại địa phương. Hai bên đều đã vi phạm nghĩa vụ của vợ chồng là phải chung sống, quan tâm và có trách nhiệm với nhau. Mặt khác, hai bên không có biện pháp gì để hàn gắn tình cảm vợ chồng nên đã làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Việc chị TTH yêu cầu được ly hôn với anh NTT là có căn cứ, phù hợp thực tế và phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên c n được chấp nhận.

[4] Về con chung: Chị TTH và anh NTT có 01 con chung, là G, sinh ngày 08-5- 2014, hiện đang do chị TTH trực tiếp nuôi dưỡng. Ly hôn, chị TTH có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con trưởng thành, đủ 18 tuổi; anh NTT không có ý kiến, quan điểm gì về việc nuôi dưỡng con chung. Hội đồng xét xử nhận thấy việc để chị TTH trực tiếp nuôi dưỡng con chung s đảm bảo được quyền lợi về mọi mặt của con chung, phù hợp với nguyện vọng của nguyên đơn; phù hợp với thực tế; phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình nên c n được chấp nhận. Việc cấp dưỡng nuôi con chung hai bên s tự th a thuận và thực hiện với nhau, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này các bên có yêu cầu về việc cấp dưỡng nuôi con thì có quyền khởi kiện đến Tòa án để giải quyết theo quy định của pháp luật.

Anh NTT có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở; tuy nhiên nếu anh NTT lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì chị TTH có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của anh NTT theo quy định của pháp luật.

5 Về tài sản chung: Hai bên tự th a thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra để giải quyết. Nếu sau này các bên có tranh chấp về tài sản chung thì có quyền khởi kiện đến Tòa án để giải quyết theo quy định của pháp luật.

6 Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số 326/2016/ BTVQH14 ngày 30-12-2016 của ban Thường vụ Quốc hội: Chị TTH phải chịu 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 (ba trăm nghìn) đồng, theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0008170 ngày 08-4-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Chị TTH đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

7 Về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

n cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, khoản 4 Điều 147, Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết số: 326/2016/ BTVQH14 ngày 30-12-2016 của ban Thường vụ Quốc hội;

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị TTH được ly hôn anh NTT.

2. Về con chung: Giao con chung, là G, sinh ngày 08-5-2014 cho chị TTH trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con trưởng thành đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Anh NTT có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Chị TTH có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom của anh NTT nếu anh NTT lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về án phí: Chị TTH phải nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng án phí dân sự sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (ba trăm nghìn) đồng theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số: 0008170 ngày 08-4-2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Hồng Bàng, thành phố Hải Phòng. Chị TTH đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

4. Về quyền kháng cáo bản án sơ thẩm: Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

232
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 08/08/2019 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:30/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Hồng Bàng - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về