Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 07/06/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 30/2019/HNGĐ-ST NGÀY 07/06/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 07 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 74/2019/TLST-HNGĐ, ngày 11 tháng 3 năm 2019 về tranh chấp “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2019/QĐXX-ST ngày 03 tháng 5 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng V; sinh năm 1970

HKTT: Thôn 2, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước

- Bị đơn: Anh Nguyễn Quang Đ; sinh năm 1968

HKTT: Thôn 2, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước.

(Nguyên đơn có mặt; bị đơn anh Điển vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 05/3/2019 và trong quá trình xét xử nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng V trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng V và anh Nguyễn Quang Đ tự nguyện tìm hiểu và chung sống vợ chồng với nhau vào năm 1990 và có đăng ký kết hôn tại UBND xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai ngày 20/4/1991. Quá trình chung sống hạnh phúc nhưng tới năm 2016 thì phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, vì vậy chị V và anh Đ đã sống ly thân hơn một năm nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nên chị V yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh Đ để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị V và anh Đ có 03 người con chung họ tên là Nguyễn Lữu Q, sinh năm 1991, Nguyễn Trọng H, sinh năm 1996 và Nguyễn Nhật H, sinh năm 2000. Hiện nay, cả ba cháu đã thành niên và có đủ năng lực hành vi dân sự nên chị V không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong quá trình Tòa án thụ lý vụ án, nguyên đơn chị V cung cấp các tài liệu, chứng cứ gồm: Bản sao đăng ký kết hôn của UBND xã Sông Ray ngày 04/5/2018; bản sao chứng minh nhân dân, bản sao hộ khẩu, 03 bản sao giấy khai sinh. Ngoài ra, chị V không cung cấp thêm tài liệu, chứng cứ gì.

Bị đơn anh Nguyễn Quang Đ đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vắng mặt.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 12/3/2019 anh Nguyễn Quang Đ có trình bày, anh Đ thống nhất về thời gian chung sống và thời gian đăng ký kết hôn, anh Đ thừa nhận vợ chồng có mâu thuẫn do làm ăn kinh tế đi xuống nên gần một năm nay anh Đ và chị V không nói chuyện với nhau nhưng thực tế anh Đ vẫn còn tình cảm với chị V, không muốn ly hôn và mong muốn đoàn tụ với chị V để cùng chăm sóc con chung, về con chung: Anh Đ thống nhất như lời trình bày của chị V về con chung đã thành niên và có đủ năng lực hành vi dân sự và có cuộc sống riêng.

Về tài sản chung, nợ chung do anh Đ chưa muốn ly hôn nên không có ý kiến trình bày.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng có quan điểm:

Đề nghị Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt anh Đ vì anh Đ đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt không có lý do.

Đi với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị V.

Về con chung đã thành niên và có đủ năng lực hành vi dân sự nên các đương sự không yêu cầu nên đề nghị không xem xét.

Về nợ chung, tài sản chung các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

Các tài liệu, chứng cứ:

Nguyên đơn nộp:

- Giấy khai sinh; sổ hộ khẩu và chứng minh nhân dân

- Giấy kết hôn (bản sao)

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng V và anh Nguyễn Quang Đ tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn năm 1991 tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện C, tỉnh Đồng Nai. Điều này phù hợp với bản sao giấy chứng nhận kết hôn số 63/1991 ngày 20/4/1991 đã được chị V giao nộp hợp pháp. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị Nguyễn Thị Hồng V và anh Nguyễn Quang Đ là hợp pháp.

Về mâu thuẫn gia đình: Theo lời khai của chị V trong quá trình mâu thuẫn chị và anh Đcó nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn phát sinh nhiều lần và thường xuyên bắt đầu từ năm 2016 đến nay, anh Đ không lo làm ăn, chăm sóc gia đình chị V và anh Đ đã sống ly thân hơn một năm nay. Đối với anh Đ đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn vắng mặt và trong lời khai của anh cũng thống nhất về thời gian chung sống và có mâu thuẫn về kinh tế, vợ chồng anh Đ và chị V gần một năm nay không nói chuyện với nhau. Như vậy, mâu thuẫn gia đình là trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 cần chấp nhận nguyện vọng muốn ly hôn của chị Vân.

[2] Về con chung: Các con chung đã thành niên và có đủ năng lực hành vi dân sự và đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

[3] Về tài sản chung: Tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về nợ chung: Tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Theo quy định tại khoản 2, khoản 4 Điều 131 của Bộ luật tố tụng dân sự buộc nguyên đơn chị V phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo luật định.

[6] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo luật định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51; Điều 55; Điều 81; Điều 82 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/ 2016/UBTVQH16 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

[1] Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Hồng V về việc ly hôn. Chị Nguyễn Thị Hồng V được ly hôn với anh Nguyễn Quang Đ.

[2] Về con chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[3] Về tài sản chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về nợ chung: Đương sự không yêu cầu nên không xem xét.

[5] Về án phí: Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Hồng V phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0009218 ngày 11/3/2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

[6] Quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết tại Ủy ban nhân dân xã nơi đương sự cư trú.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2019/HNGĐ-ST ngày 07/06/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:30/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về