Bản án 30/2018/HS-ST ngày 16/08/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 30/2018/HS-ST NGÀY 16/08/2018 VỀ TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

Ngày 16 tháng 8 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 30/2018/HSST, ngày 27 tháng 7 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 31/2018/QĐXXST-HS, ngày 02 tháng 8 năm 2018 đối với bị cáo:

Nguyễn La H,sinh năm 1988; tại: tỉnh Đắk Nông; Tên gọi khác: C; Nơi đăng ký NKTT và trú tại: thôn B, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông; Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; Trình độ học vấn: 06/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Thiên chúa giáo; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Văn P, sinh năm 1958; Con bà: Trần Thị V, sinh năm 1954 (đã chết); Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Ngày 07/5/2014, thực hiện hành vi Đánh bạc bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil xử phạt năm triệu đồng. Ngày 13/6/2016, Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil áp dụng Nghị quyết 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 Quyết định miễn hình phạt tiền cho Nguyễn La H tại Quyết định số 22/2016/QĐ-TA, bị cáo được xóa án tích.

Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 12/6/2018, hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil - Có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại: Nguyễn Minh H, sinh năm 1989 (có mặt) Trú tại: thôn 1, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Trần Đức T, sinh năm 1974 (vắng mặt) Trú tại: tổ dân phố 8, thị trấn Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông.

- Người làm chứng: Ông Nguyễn Thanh H, sinh năm 1957 (vắng mặt) Trú tại: Thôn 07, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Bị cáo Nguyễn La H bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau: Khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 16/02/2018 Nguyễn La H đến gặp bạn là anh Nguyễn Minh H, sinh năm 1989, trú tại thôn 01, xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông mượn xe mô tô nhãn hiện Yamaha, loại Sirius biển số 48 E1 - 227.81 của anh Nguyễn Minh H để đi vào nghĩa trang thôn B, xã Đức Minh, huyện Đắk Mil, thắp hương cho phần mộ của mẹ Nguyễn La H thì được anh Nguyễn Minh H đồng ý. Sau khi thắp hương cho mẹ xong Nguyễn La H điều khiển xe mô tô biển số 48 E1- 227.81 đi chúc Tết một số người bạn. Đến khoảng 10 giờ 00 phút cùng ngày, Nguyễn La H nảy sinh ý định đem xe mô tô biển số 48 E1- 227.81 đến cầm tại tiệm cầm đồ do anh Trần Đức T, sinh năm 1974, trú tại tổ dân phố 8, thị trấn Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông làm chủ cầm cố lấy 3.000.000 đồng (Ba triệu đồng) hẹn đến ngày 21/02/2018 đem giấy tờ đến cho anh Trần Đức T, sau đó đến khoảng 10 giờ 30 phút cùng ngày Nguyễn La H đến gặp anh Trần Đức T mượn thêm 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) rồi dùng số tiền này đánh bạc hết.

Sau khi không thấy Nguyễn La H trả xe anh Nguyễn Minh H đã nhiều lần gọi điện thoại và tìm gặp Nguyễn La H yêu cầu trả xe mô tô 48 E1 – 227.81 nhưng Nguyễn La H tránh né không trả nên anh Nguyễn Minh H đã tố cáo Nguyễn La H đến cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk Mil, tại cơ quan cảnh sát điều tra Nguyễn La H đã thừa nhận toàn bộ hành vi của mình.

Tại bản kết luận định giá tài sản số 11/HĐĐGTS ngày 14/4/2018 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự huyện Đắk Mil kết luận: Xe mô tô nhẫn hiệu Yamaha loại xe Sirius biển số 48 E1- 227.81 có giá trị còn lại là 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng).

Tại bản cáo trạng số 34/CTr-VKS, ngày 26/7/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông đã truy tố bị cáo Nguyễn La H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 BLHS.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil đã phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn La H về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự.

Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng:

- Về hình phạt: Áp dụng điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1Điều 51; Điều 38 của BLHS, tuyên phạt bị cáo Nguyễn La H mức án từ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng đến 02 (hai) năm tù giam về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.

- Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét giải quyết.

- Về vật chứng của án: áp dụng Điều 48 của BLHS và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự Chấp nhận việc cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Đắk Mil đã thu giữ và trả lại xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại xe Sirius biển số 48 E1 –227.81 cho anh Nguyễn Minh H là chủ sỡ hữu hợp pháp.

Tại phiên tòa, Bị cáo, Người bị hại không có ý kiến tranh luận gì. Đối với người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Đức T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, bên cạnh đó đã có lời khai trong hồ sơ vụ án và cũng đã nhận lại tài sản, không có bất cứ yêu cầu gì về bồi thường, việc vắng mặt của Trần Đức T không ảnh hưởng đến việc giải quyết vụ án nên Tòa án quyết định xét xử vắng mặt theo quy định tại Điều 292 của BLTTHS.

Bị cáo Nguyễn La H nói lời sau cùng chỉ xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì thực sự bị cáo đã nhận ra những lỗi lầm của mình chỉ mong hội đồng xét xử cho bị cáo một cơ hội để sửa chữa sớm trở thành người công dân tốt có ích.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, Căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ đã được tranh tụng tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Đắk Mil, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Bị cáo Nguyễn La H đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc đã nêu, lời khai của bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng, lời khai của những người tham gia tố tụng khác tại cơ quan điều tra, phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Như vậy đã có đủ cơ sở để kết luận: Vào khoảng 09 giờ 00 phút, ngày 16/02/2018 tại xã Đ, huyện M, tỉnh Đắk Nông lợi dụng sự quen biết với Nguyễn Minh H, bị cáo Nguyễn La H đã mượn xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại xe Sirius biển số 48 E1 – 227.81 có giá trị 16.000.000 đồng (Mười sáu triệu đồng) sau đó đem đi cầm cố cho Trần Đức T để lấy tổng cộng 5.000.000 đồng (Năm triệu đồng) để tiêu xài cá nhân dùng tiền để đi đánh bạc.

Xét quan điểm của Viện kiểm sát tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Nguyễn La H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo điểm b khoản 1 Điều 175 của BLHS. Điều 175 của BLHS quy định:

“1.Người nào thực hiện một trong những hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170,171, 172,173,174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến 03 năm:

b, Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.”

 [3] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân và hình phạt đối với bị cáo:

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến tài sản thuộc sở hữu của người khác. Bị cáo là công dân có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết được việc mượn tài sản của người khác sau đó sử dụng vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản là vi phạm pháp luật, làm mất trật tự an ninh tại địa phương, gây tâm lý hoang mang trong quần chúng nhân dân nhưng với ý thức xem thường pháp luật và bản tính lười lao động nhưng lại muốn có tiền tiêu xài nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình đã gây ra.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng. Nhưng bị cáo là người có nhân thân xấu. Vào ngày 26/9/2014 bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil xử phạt về hành vi Đánh bạc bằng hình thức phạt tiền. Đến ngày 13/6/2016 Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil áp dung Nghị quyết 109/2015/QH13 ngày 27/11/2015 quyết định miễn hình phạt tiền cho NguyễnLa H và bị cáo được xóa án tích. 

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Nên cần áp dụng điểm s khoản 1 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Tuy nhiên cần phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian đủ để bị cáo yên tâm cải tạo trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

Đối với hành vi đánh bạc của Nguyễn La H, hiện cơ quan cảnh sát điều tra công an huyện Đắk Mil đang tiếp tục xác minh, khi nào có đủ căn cứ sẽ xử lý sau.

 [4] Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét giải quyết.

 [5] Về vật chứng của án: Việc cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Đắk Mil đã thu giữ và trả lại xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại xe Sirius biển số 48 E1 – 227.81 cho anh Nguyễn Minh H là chủ sỡ hữu hợp pháp là phù hợp nên cần chấp nhận.

[6] Về án phí: Bị cáo Nguyễn La H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Nguyễn La H phạm tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.Áp dụng: điểm b khoản 1 Điều 175; điểm s khoản 1Điều 51 của BLHS.

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn La H 01 (một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam, ngày 12/6/2018.

2. Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bị cáo bồi thường nên không xem xét, giải quyết.

3. Về vật chứng của án: Áp dụng Điều 48 của Bộ luật hình sự và Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự: Chấp nhận cơ quan cảnh sát Điều tra công an huyện Đắk Mil đã thu giữ và trả lại xe mô tô nhãn hiệu Yamaha loại xe Sirius biển số 48 E1 – 227.81 cho anh Nguyễn Minh H là chủ sở hữu hợp pháp (theo biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 11/6/2018 tại Công an huyện Đắk Mil).

4. Về án phí HSST: Căn cứ Điều 136 của BLTTHS; Áp dụng Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội: Buộc bị cáo Nguyễn La H phải nộp 200.000 đồng (Hai trăm nghìn) án phí HSST.

5. Về quyền kháng cáo: Bị cáo; Người bị hại có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án về phần liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

329
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HS-ST ngày 16/08/2018 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

Số hiệu:30/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 16/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về