Bản án 30/2018/HS-ST ngày 04/07/2018 về tội vận chuyển hàng cấm

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG, TỈNH CAO BẰNG

BẢN ÁN 30/2018/HS-ST NGÀY 04/07/2018 VỀ TỘI VẬN CHUYỂN HÀNG CẤM

Trong ngày 04 tháng 7 năm 2018. Tại trụ sở Toà án nhân dân Thành phố Cao Bằng xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 25/2018/HSST ngày 01 tháng 6 năm 2018 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2018/QĐXXST-HS ngày 14 tháng 6 năm 2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: ĐÀM VĂN T, tên gọi khác: không; giới tính: nam;

Sinh ngày: 05/01/1994;

Nơi sinh: xã HT, huyện HA, tỉnh Cao Bằng;

Nơi cư trú: xóm KN, xã HT, huyện HA, tỉnh Cao Bằng;

Dân tộc: tày; quốc tịch: Việt Nam; tôn giáo: không; nghề nghiệp: không; Chức vụ trước khi phạm tội (Đảng, chính quyền, đoàn thể): không; trình độ học vấn: 10/12 phổ thông;

Bố đẻ: Đàm Văn N (chết năm 2011); mẹ đẻ: Nông Thị N, sinh 1975, trú tại: xóm KN, xã HT, huyện HA, tỉnh Cao Bằng;

Anh, chị, em ruột: gia đình có 02 anh em, bị cáo là con cả trong gia đình; Có vợ: Hoàng Thị L và có 01 con, sinh năm 2016;

Tiền án: không;

Tiền sự: 01 tiền sự: ngày 20/12/2017 bị Công an phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy;

Bị cáo đang bị áp dụng biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú từ ngày 05/3/2018; Có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: bà Nông Thị N, sinh 1975, trú tại: xóm KN, xã HT, huyện HA, tỉnh Cao Bằng; Có mặt. 

Người làm chứng: Ông Nông Trung L(T), sinh 1991;

Trú tại: xóm Lũng Diển, xã Công Trừng, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng; Vắng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong Hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Hồi 20 giờ 30 phút ngày 24 tháng 01 năm 2018 tại tổ MB, phường ĐT, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng, tổ công tác Công an phường Đề Thám đã phát hiện và bắt quả tang đối tượng Đàm Văn T (sinh năm 1994; trú tại: xóm KN, xã HT, huyện HA, tỉnh Cao Bằng) có hành vi vận chuyển hàng cấm (pháo). Vật chứng thu giữ: 01 (một) bao dứa bên trong có chứa 32 (ba mươi hai) băng pháo tép và 03 (ba) cuộn pháo tép được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật; 01 (một) xe mô tô màu xanh dương nhãn hiệu Honda Wave RSX không gương, đã qua sử dụng mang biển kiểm soát 11H1-0125B; 01 (một) điện thoại di động màu đen nhãn hiệu MASSTEL, có số IMEI 358371043473829, điện thoại cũ đã qua sử dụng. Công an phường Đề Thám đã chuyển toàn bộ tài liệu liên quan đến vụ việc cho cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng.

Quá trình điều tra Đàm Văn T khai nhận hành vi phạm tội của mình như sau: khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23 tháng 01 năm 2018, Nông Trung L (tên gọi khác là T; sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú ở xã CT, huyện HA, tỉnh Cao Bằng; tạm trú tại xóm NT, phường ĐT, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng) gọi điện thoại cho T để nhờ T đi lên huyện HQ, tỉnh Cao Bằng lấy pháo về để đưa cho một người tên là H ở khu vực cầu S thuộc phường ĐT, thành phố CB và sẽ được trả công. Đến khoảng 17 giờ ngày 24 tháng 01 năm 2018, T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX biển kiểm soát 11H1- 0125B lên ngã ba Đ, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, T gặp một người đàn ông lạ mặt khoảng 40 tuổi (không biết tên và địa chỉ) bước xuống từ xe khách 16 chỗ màu nâu không rõ biển kiểm soát đưa cho T một bao tải dứa và nói bên trong có một cuộn pháo tép tròn giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) và một băng pháo tép dài giá 28.000 đồng (hai mươi tám nghìn đồng). Sau đó, T quay về thành phố CB gọi cho H và hẹn đưa pháo ở cầu S thuộc phường ĐT, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng. Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đem số pháo ra chờ tại cầu S thì bị lực lượng Công an phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng bắt quả tang.

Vào hồi 8 giờ 30 phút ngày 25 tháng 01 năm 2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng tiến hành mở niêm phong, cân xác định trọng lượng tịnh, lấy mẫu gửi giám định và niêm phong tại trụ sở Công an thành phố Cao Bằng. Cân xác định khối lượng tang vật gồm: 03 (ba) bánh pháo cuộn tròn đường kính khoảng 20cm có khối lượng 3,1kg (ba phẩy một kilôgam) và 32 (ba mươi hai) dây pháo dài khoảng 40cm có khối lượng 4,9kg (bốn phẩy chín kilôgam). Tổng khối lượng vật chứng là 08kg (tám kilôgam).

Cùng ngày 25 tháng 01 năm 2018, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 28 đối với số vật chứng trên: "mẫu gửi giám định có phải pháo không? Là loại pháo gì? Có chứa thuốc pháo hoặc thuốc nổ và gây được tiếng nổ không?". Tại bản Kết luận giám định số 611/C54-P2 ngày 31 tháng 01 năm 2018 của Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: "Các mẫu vật gửi giám định đều là pháo nổ, bên trong có chứa thuốc pháo, khi đốt phát ra tiếng nổ" .

Hành vi của Đàm Văn T đã bị cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng lập hồ sơ đề nghị truy tố trước pháp luật về tội Vận chuyển hàng cấm theo khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng đã ra cáo trạng số: 28/CT- VKSTP ngày 31/5/2018 truy tố bị cáo Đàm Văn T về tội “Vận chuyển hàng cấm” theo điểm c khoản 1 Điều 191 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa bị cáo T đã khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên; Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa cùng phù hợp với các nội dung khai nhận của bị cáo tại cơ quan điều tra và các tài liệu, chứng cứ khác do cơ quan điều tra thu thập về thời gian, hành vi, tang vật thu giữ...

Tại phiên tòa hôm nay. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng sau khi xét hỏi và tranh luận vẫn giữ nguyên quan điểm: truy tố bị cáo Đàm Văn T về tội danh “Vận chuyển hàng cấm”; Viện kiểm sát đề nghị: áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm i, s khoản 1 Điều 51; Điều 65 Bộ luật hình sự, mức hình phạt đối với bị cáo từ 9 đến 12 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, có ấn định thời gian thử thách và giao bị cáo cho địa phương nơi bị cáo cư trú quản lý và giáo dục. Tang vật pháo nổ là tang vật vụ án, là hàng nhà nước cấm, vì vậy cần xử tịch thu để tiêu hủy theo quy định; chiếc điện thoại di động hiệu Masstel xác định được bị cáo sử dụng làm phương tiện thực hiện hành vi phạm tội, vậy cần tịch thu để phát mại sung công quỹ nhà nước.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, đại diện Viện kiểm sát không có ý kiến hay khiếu nạị gì về các hoạt động tố tụng của cơ quan điều tra và của Tòa án.

Bị cáo thực hiện quyền nói lời sau cùng trước khi Hội đồng xét xử vào nghị án: bản thân bị cáo rất ăn năn, hối hận, bị cáo biết mình đã sai và mong hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo được hưởng lượng khoan hồng của pháp luật.

Sau khi thẩm tra các chứng cứ có trong hồ sơ, nghe lời khai của bị cáo, ý kiến của kiểm sát viên.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Tại phiên tòa bị cáo Đàm Văn T thừa nhận hành vi: khoảng 14 giờ 30 phút ngày 23 tháng 01 năm 2018, Nông Trung L (tên gọi khác là T; sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú ở xóm LD, xã CT, huyện HA, tỉnh Cao Bằng; tạm trú tại xóm NT, phường ĐT, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng) gọi điện thoại cho T để nhờ T đi lên huyện HQ, tỉnh Cao Bằng lấy pháo về để đưa cho một người tên là H ở khu vực cầu S thuộc phường ĐT, thành phố CB và sẽ được trả công. Đến khoảng 17 giờ ngày 24 tháng 01 năm 2018, T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX biển kiểm soát 11H1- 012.5B lên ngã ba Đ, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng.

Tại đây, T gặp một người đàn ông lạ mặt khoảng 40 tuổi (không biết tên và địa chỉ) bước xuống từ xe khách 16 chỗ màu nâu không rõ biển kiểm soát đưa cho T một bao tải dứa và nói bên trong có một cuộn pháo tép tròn giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) và một băng pháo tép dài giá 28.000 đồng (hai mươi tám nghìn đồng). Sau đó, T quay về thành phố CB gọi cho H và hẹn đưa pháo ở cầu S thuộc phường ĐT, thành phố CB, tỉnh Cao Bằng. Đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đem số pháo ra chờ tại cầu S thì bị lực lượng Công an phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng bắt quả tang.

Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và cùng phù hợp với các chứng cứ chứng minh, tài liệu đã được xem xét tại phiên tòa, đó là: Biên bản bắt người phạm tội quả tang do Công an phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng lập hồi 20h30 ngày 24/01/2018; Biên bản cân xác định trọng lượng tang vật, lấy mẫu và niêm phong tang vật do Công an thành phố Cao Bằng lập hồi 08h30 ngày 25/01/2018; Kết luận giám định số: 611/C54 – P2 ngày 31/01/2018. Như vậy có đủ căn cứ để xác định: khoảng 17 giờ ngày 24 tháng 01 năm 2018, T một mình điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave RSX biển kiểm soát 11H1- 012.5B lên ngã ba Đ, huyện HQ, tỉnh Cao Bằng. Tại đây, T gặp một người đàn ông lạ mặt khoảng 40 tuổi (không biết tên và địa chỉ) bước xuống từ xe khách 16 chỗ màu nâu không rõ biển kiểm soát đưa cho T một bao tải dứa và nói bên trong có một cuộn pháo tép tròn giá 100.000 đồng (một trăm nghìn đồng) và một băng pháo tép dài giá 28.000 đồng (hai mươi tám nghìn đồng). Sau đó, T quay về thành phố CB; đến 20 giờ 30 phút cùng ngày, khi T đang vận chuyển pháo nổ đi đến điểm hẹn khu vực cầu S thì bị lực lượng Công an phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng bắt quả tang.

Hành vi của bị cáo T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vận chuyển hàng cấm”, việc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng truy tố bị cáo theo như cáo trạng số: 28/CT-VKSTP ngày 31/5/2018 là hoàn toàn có căn cứ, đúng người, đúng tội và đúng quy định của pháp luật.

Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm chế độ quản lý của Nhà nước về cấm sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng pháo nổ.., gây mất trật tự trị an xã hội tại địa phương, tiếp tay cho hoạt động buôn bán pháo nổ, sử dụng pháo nổ, tạo ý thức coi thường pháp luật trong đời sống xã hội, đi ngược lại với lợi ích chung của cộng đồng. Bản thân bị cáo là người có đầy đủ nhận thức và năng lực hành vi, mặc dù mục đích, động cơ phạm tội đơn giản, hành vi rõ ràng, nhưng với hành vi cố ý phạm tội, bị cáo phải chịu trách nhiệm trước pháp luật bằng hình phạt thỏa đáng, có như vậy mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật và việc đấu tranh phòng, chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

Về nhân thân của bị cáo Đàm Văn T thấy rằng: bị cáo là người có nhân thân xấu, ngày 20/12/2017 bị Công an phường Đề Thám, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng xử phạt vi phạm hành chính về hành vi sử dụng trái phép chất ma túy. Mặc dù là một công dân có trình độ học vấn phổ thông lớp 10/12, sinh sống trong môi trường xã hội lành mạnh, có đủ điều kiện về thông tin xã hội và pháp luật, bị cáo biết rõ mọi hành vi liên quan đến sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ... đều bị cấm và bị pháp luật xử lý nghiêm khắc, nhưng chỉ vì muốn có tiền tiêu sài bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội, như vậy khi xem xét đề nghị áp dụng mức hình phạt của Viện kiểm sát đối với bị cáo là hình phạt tù nhưng cho bị cáo được hưởng án treo, có ấn định thời gian thử thách; Tòa án nhận thấy: bị cáo không đủ điều kiện để được áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự vì bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi đang trong thời hiệu xử lý hành chính, có đủ căn cứ để xác định bản thân bị cáo không thể có khả năng tự cải tạo, không thỏa mãn các điều kiện quy định tại mục 2 Điều 2 của Nghị quyết số: 02/2018/NQ –HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 Bộ luật hình sự về án treo, đồng thời xét tình hình buôn bán, vận chuyển, sử dụng pháo nổ hiện nay tại địa phương diễn biến phức tạp, có chiều hướng gia tăng, hành vi thủ đoạn phạm tội tinh vi, gây ảnh hưởng lớn đến tình hình an ninh trật tự tại địa phương và mang tính nguy hiểm, cần thiết khi lượng hình đối với bị cáo phải áp dụng hình phạt tương xứng là cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định, có như vậy mới đủ điều kiện để giáo dục và cải tạo bị cáo trở thành người công dân tốt, đây cũng là bài học chung cho cộng đồng, đảm bảo được việc đấu tranh phòng chống tội phạm chung trong xã hội.

Còn việc Trung khai nhận Nông Trung L (tên gọi khác là T; sinh năm 1991, hộ khẩu thường trú ở xóm LD, xã CT, huyện HA, tỉnh Cao Bằng) gọi điện thoại cho T để nhờ T đi lên huyện HQ, tỉnh Cao Bằng lấy pháo là không có cơ sở để xác định lời khai của bị cáo là đúng để làm căn cứ xem xét xử lý đối với Nông Trung L.

Về xử lý vật chứng: vật chứng là pháo nổ, xác định đây là tang vật của vụ án, thuộc diện nhà nước cấm lưu hành trái phép. Vậy cần xử tịch thu để tiêu hủy theo quy định.

Về tài sản tạm giữ 01 (một) điện thoại di động màu đen nhãn hiệu MASSTEL, có số IMEI 358371043473829, điện thoại cũ đã qua sử dụng. Xác định điện thoại được bị cáo sử dụng làm phương tiện liên lạc để thực hiện hành vi phạm tội, vì vậy cần xử tịch thu để phát mại sung công quỹ nhà nước.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã tạm giữ chiếc xe máy hiệu Honda Wave RSX biển kiểm soát 11H1- 012.5B, sau khi điều tra làm rõ, cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chủ sở hữu ngày 09/4/2018; tại phiên tòa chủ sở hữu xác nhận đã nhận tài sản là chiếc xe máy Wave RSX biển kiểm soát 11H1- 012.5B và không có yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết gì thêm.

Ngoài trách nhiệm hình sự bị cáo sẽ phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh - hình phạt:

- Tuyên bố: bị cáo Đàm Văn T phạm tội "Vận chuyển hàng cấm".

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 191; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

- Xử phạt bị cáo Đàm Văn T 09 (chín) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo vào trại thụ hình.

2. Về tang vật:

Áp dụng khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

- Tịch thu để tiêu hủy toàn bộ số tang vật là pháo nổ được niêm phong trong 01 bao tải dứa, trên bao tải có ghi tang vật vụ án Đàm Văn T.

- Tịch thu để phát mại sung công quỹ nhà nước 01 (một) điện thoại di động màu đen nhãn hiệu MASSTEL, có số IMEI 358371043473829, điện thoại cũ đã qua sử dụng.

Toàn bộ số tang vật trên hiện đang được tạm giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo biên bản giao, nhận vật chứng hồi 09h00 và 10h00 ngày 09/5/2018.

3. Về án phí:

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự.

- Xử buộc bị cáo Đàm Văn T phải chịu 200.000đ (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai sơ thẩm có mặt bị cáo, báo cho biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Có mặt người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, báo cho biết có quyền kháng cáo về phần quyền lợi, nghĩa vụ của mình trong vụ án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

224
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018/HS-ST ngày 04/07/2018 về tội vận chuyển hàng cấm

Số hiệu:30/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về