Bản án 30/2018 ngày 21/06/2018 về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU ĐỨC, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 30/2018 NGÀY 21/06/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 21 tháng 6 năm 2018, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Đức xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 60/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 3 năm 2018 về tranh chấp ly hôn, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 18 tháng 5 năm 2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Đức giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Thị Minh L, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Tổ 29, thôn ĐT, xã CB, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn Q, sinh năm 1993.

Địa chỉ: Tổ 53, thôn ĐT, xã CB, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.

(Chị L có đơn xin vắng mặt, anh Q vắng mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình xét xử, nguyên đơn, chị Trương Thị Minh L, trình bày: Sau khi tìm hiểu nhau một thời gian thì chị L và anh Q tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Đến ngày 12-5-2017 đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân (UBND) xã CB, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc nhưng đến tháng 01/2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do trong thời gian chị L mang thai anh Q thường xuyên cờ bạc, dẫn đến nợ nần từ đó vợ chồng bất hòa, dẫn đến cãi vã, hơn nữa tính tình mỗi người lại khác nhau, không hợp, chị L nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể để tiếp tục sống với nhau được nữa. Gia đình hai bên cũng đã nhiều lần khuyên giải, hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng không thành. Từ đó vợ chồng sống ly thân. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị L yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị L các vấn đề sau:

Về hôn nhân: Chị L xin được ly hôn với anh Phạm Văn Q.

Về nuôi con chung: Chị L và anh Q có 01 người con chung là cháu Phạm Minh Diệp A, sinh ngày 23-11- 2017, chị L có nguyện vọng được quyền nuôi dưỡng cháu A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Tự thỏa thuận không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với anh Phạm Văn Q đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng vẫn cố tình vắng mặt không lý do vì vậy không thể lấy lời khai và tiến hành hòa giải được.

Phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa:

Về tố tụng: Việc Tòa án thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền, sau khi thụ lý đã thực hiện đầy các thủ tục tố tụng theo Bộ luật tố tụng dân sự. Trong quá trình giải quyết vụ án thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa, nguyên đơn đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nay anh Q vắng mặt không lý do là lần thứ hai nên Tòa án xét xử vắng mặt anh Q là có căn cứ.

Về nội dung vụ án: Mâu thuẫn của vợ chồng chị Trương Thị Minh L và anh Phạm Văn Q là có thật và trầm trọng, Nay chị L yêu cầu ly hôn là có cơ sở nghĩ nên chấp nhận.

Về nuôi con chung: Căn cứ Khoản 3 điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao cháu Phạm Minh Diệp A, sinh ngày 23-11- 2017 cho chị L trực tiếp nuôi dưỡng, anh Phạm Văn Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị L yêu cầu tự thỏa thuận không yêu cầu nên không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng: Chị L và anh Q sống chung với nhau có đăng ký kết hôn nay chị L yêu cầu ly hôn nên đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Nơi cư trú của anh Q là xã CB, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu nên Tòa án nhân dân huyện Châu Đức thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị L và anh Q trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn vào ngày 12 tháng 5 năm 2017 tại UBND xã CB, huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu. Trong quá trình chung sống thì đến tháng 01/2018 giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do khi chị L mang thai anh Q thường xuyên cờ bạc, dẫn đến nợ nần từ đó vợ chồng thường xuyên cải vã, hơn nữa tính tình vợ chồng không hợp nhau nên tình cảm vợ chồng cũng từ đó mất đi. Hai bên gia đình cũng đã tìm mọi cách để hàn gắn hạnh phúc gia đình nhưng không đạt được kết quả. Từ tháng 01-2018 thì vợ chồng ly thân. Trong thời gian ly thân vợ chồng không gặp nhau để hàn gắn tình cảm nay chị L cương quyết xin ly hôn. Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án cũng đã tiến hành hòa giải để vợ chồng có cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng anh Q không đến nên Tòa án không tiến hành hòa giải được.

[ 3] Anh Phạm Văn Q mặc dù theo kết quả xác minh hiện đang cư trú tại địa phương, nhưng khi được Tòa án triệu tập để hòa giải để giải quyết vụ án nhưng vẫn cố tình vắng mặt. Điều đó thể hiện anh Q không có thiện chí hòa giải để hàn gắn lại hạnh phúc gia đình để cùng nhau nuôi dạy con chung. Ngoài ra theo kết quả xác minh thì mâu thuẫn của vợ chồng chị L và anh Q là có thật, do đó thường xuyên xảy ra mâu thuẫn.

Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị L và anh Q ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn với anh Q.

[3] Về nuôi con chung: Chị L và anh Q có 01 người con chung là Phạm Minh Diệp A, sinh ngày 23-11- 2017, chị L có nguyện vọng được quyền nuôi dưỡng cháu A không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Xét yêu cầu thấy cháu A còn nhỏ mới 20 tháng tuổi cần có sự chăm sóc giáo dục của người mẹ căn cứ khoản 3 điều 81 Luật hôn nhân và gia đình tiếp tục giao cháu A cho chị L nuôi dưỡng là có căn cứ.

[4] Về chia tài sản chung và nợ chung: Chị L yêu cầu tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Chị L phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (DSST) đối với yêu cầu ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35; khoản 1 Điều 39; khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Áp dụng: Các Điều 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Trương Thị Minh L và anh Phạm Văn Q.

2. Về nuôi con chung: Chị Trương Thị Minh L và anh Phạm Văn Q có 01 người con chung là Phạm Minh Diệp A, sinh ngày 23-11- 2017.

Giao con chung Phạm Minh Diệp A, sinh ngày 23-11- 2017, cho chị Trương Thị Minh L trực tiếp nuôi dưỡng. Anh Phạm Văn Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Phạm Văn Q có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà mình không trực tiếp nuôi dưỡng không ai được quyền cản trở.

Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về chia tài sản chung: Chị L yêu cầu tự thỏa thuận không yêu cầu giải quyết nên Tòa án không xem xét.

4.Về án phí: Chị Trương Thị Minh L phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí DSST đối với yêu cầu ly hôn nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) mà chị Trương Thị Minh L đã nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Đức theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số TU/2017/0000868 ngày 13 tháng 3 năm 2018; Chị Trương Thị Minh L đã nộp xong án phí DSST đối với yêu cầu ly hôn.

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (21/6/2018), đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

476
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2018 ngày 21/06/2018 về ly hôn

Số hiệu:30/2018
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Đức - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/06/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về