Bản án 30/2017/HSST ngày 13/04/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH TIỀN GIANG

BẢN ÁN 30/2017/HSST NGÀY 13/04/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 04 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 21/2017/HSST ngày 17 tháng 02 năm 2017 đối với bị cáo:

Lê Văn K, sinh năm 1996, tại Tiền Giang.

- Tên gọi khác: Không.

- Nơi ĐKHKTT: ấp B, xã H, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

- Nghề nghiệp: Không.

- Trình độ học vấn: 6/12.

- Cha: Lê Văn H, sinh năm 1968.

- Mẹ: Nguyễn Thị H, sinh năm 1968.

- Có vợ tên Phan Thị Thu N, sinh năm 1998.

- Có 02 con, con nhỏ nhất sinh năm 2016.

- Tiền sự: 01 lần. Ngày 03/8/2016 có hành vi gây thương tích cho người khác bị Công an huyện Châu Thành xử phạt hành chính số tiền 2.500.000 đồng. Theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 0042437 ngày 09/11/2016.

- Tiền án: Không

- Tạm giữ: Ngày 07 đến ngày 16/11/2016.

Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Những người tham gia tố tụng khác:

1. Người bị hại:

- Nguyễn Thị H, sinh năm 1968 (Có mặt).

- Lê Văn H, sinh năm 1968 (Vắng mắt).

Địa chỉ: ấp B, xã H, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

2. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Huỳnh Minh T, sinh năm 1989 (Vắng mặt);

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

3. Người làm chứng:

- Huỳnh Trung T, sinh năm 1993;

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang.

NHẬN THẤY

Bị cáo Lê Văn K bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh TiềnGiang truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 16 giờ ngày 04/11/2016, lợi dụng lúc mọi người trong nhà đi vắng, Lê Văn K lấy trộm 01 ti vi màn hình phẳng 32 inch hiệu Samsung màu đen, model UA32 J4003AK, type no: UA32J4003 của bà Nguyễn Thị H và nhờ một người nhưng không nhớ rõ là ai dùng xe mô tô 02 bánh chở Lê Văn K cùng với ti vi vừa trộm đến cầm cho anh Huỳnh Minh T. Khi đó, Lê Văn K nói với anh T là ti vi của nhà cần tiền nên cầm ngày hôm sau sẽ chuộc lại. Anh T không đồng ý nhận cầm, Lê Văn K yêu cầu anh T cho mượn 300.000 đồng và để ti vi lại làm tin hẹn hôm sau đến trả tiền rồi lấy ti vi về thì anh T đồng ý cho Lê Văn K mượn.

Ra về khoảng ba mươi phút sau, Lê Văn K quay lại kêu anh T cho mượn thêm 1.200.000 đồng, anh T cũng đưa cho Lê Văn K mượn và không làm biên nhận. Số tiền 1.500.000 đồng K sử dụng đi Thành phố Hồ Chí Minh và tiêu xài cá nhân hết. Đến 16 giờ 30 cùng ngày, phát hiện ti vi bị mất nên ông Lê Văn H là cha của Lê Văn K đến Công an và ông H, bà H có đơn yêu cầu xử lý hình sự đối với Lê Văn K.

Về vật chứng thu giữ gồm: 01 (một) ti vi hiệu Samsung màu đen 32 inch, loại màn hình phẳng, model: UA32 J4003AK, type no: UA32J4003. Hội đồng định giá tài sản huyện Châu Thành, định giá ngày 07/11/2016 kết luận 01 ti vi hiệu Samsung, màu đen, 32 inch, loại màn hình phẳng, model UA32 J4003AK, type no: UA32J4003 trị giá 4.500.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 24/KSĐT ngày 14 tháng 02 năm 2017 Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang đã truy tố bị cáo Lê Văn K về tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà hôm nay, bị cáo Lê Văn K khai nhận về hành vi bị cáo đã thực hiện đúng như nội dung bản cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành đã truy tố đối với bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Lê Văn K về tội “Trộm cắp tài sản”. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 138, Điều 33, điểm h, p khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 06 đến 09 tháng tù. Về vật chứng đã trả lại cho chủ sở hữu. Về trách nhiệm dân sự, sau khi người bị hại nhận lại tàisản không có yêu cầu gì khác. Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan không yêucầu bịa cáo trả lại tiền mượn nên không đặt ra xem xét.

Bà Nguyễn Thị H trình bày: Bà là mẹ ruột của bị cáo Lê Văn K. Vào ngày04/11/2016, bà đi làm về nghe chồng tên Lê Văn H là cha ruột của bị cáo nói vợ chồng bà bị mất 01ti vi hiệu Samsung, màu đen, 32 inch, loại màn hình phẳng.

Thời điểm mất tài sản không có bị cáo ở nhà, khi bị cáo về bà hỏi thì biết bị cáo lấy nên bà và ông H có đơn xử lý hình sự để răn đe bị cáo. Sau đó bị cáo đã bị tạm giữ, bà thấy rằng bị cáo cũng biết sai nên xin giảm nhẹ hình phạt và cho bị cáo được hưởng án treo.

Tại phiên tòa, vắng mặt ông Lê Văn H và anh Huỳnh Minh T. Nhưng theo tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện: Ông H là cha ruột của bị cáo Lê Văn K. Khi ông H phát hiện mất Tivi Samsung, màu đen, 32 inch, loại màn hình phẳng ông báo cho bà H biết và vợ chồng ông đều có đơn xử lý hình sự đối với bị cáo. Anh Huỳnh Minh T xác định vào khoảng 19 giờ ngày 04/11/2016, bị cáo đi bộ đến nhà anh có mang theo tivi và yêu cầu anh nhận cầm, anh không đồng ý nên bị cáo hỏi mượn anh 300.000 đồng anh đồng ý cho mượn và nói bị cáo để ti vi lại. Bị cáo nhận tiền khoảng 30 phút sau quay lại hỏi mượn tiếp 1.200.000 đồng. Đối với số tiền bị cáo mượn của anh tổng cộng 1.500.000 đồng, anh cho bị cáo không yều cầu trả lại.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác,

XÉT THẤY

Tại phiên tòa hôm nay, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội, sự thừa nhận này còn phù hợp với lời khai của người bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và chứng cứ khác có đủ cở sở kết luận: Ngày 04/11/2016, bị cáo Lê Văn K lợi dụng sự sơ hở mất cảnh giác của người bị Nguyễn Thị H, Lê Văn H đã lén lút lấy 01 (một) ti vi hiệu Samsung, màu đen, 32 inch, loại màn hình phẳng của ông bà để tại nhà thuộc ấp A, xã B, huyện Châu Thành, Tiền Giang. Giá trị tài sản chiếm đoạt là 4.500.000 đồng nên bị cáo Lê Văn K đã phạm vào tội “Trộm cắp tài sản. Tội phạm và hình phạt được qui định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của người khác, gây ảnh hưởng đến trật tự, an ninh ở địa phương. Khi thực hiện tội phạm bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng bị báo vẫn cố ý thực hiện nhằm thỏa mãn lợi ích cá nhân.

Về nhân thân, bị cáo vi phạm pháp luật vào ngày 03/8/2016 có hành vi gây thương tích cho người khác bị Công an huyện Châu Thành xử phạt hành chính số tiền 2.500.000 đồng. Đến 11/2016 bị cáo thực hiện hành vi chiếm đoạt chứng tỏ bị cáo không có ý thức ăn năn hối cải, sửa sai đối với lần vi phạm trước. Bị cáo xem thường qui định của pháp luật, cần xử phạt bị cáo mức án thật nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục bị cáo thành người công dân có ích cho xã hội và răn đe giáo dục phòng ngừa chung. Tuy nhiên, tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng và được bà H xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Do đó bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm h,p khoản 1,khoản 2 Điều 46 của Bộ luật Hình sự khi quyết định hình phạt đối với bị cáo.

Về vật chứng: Ngày 18/11/2016, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Châu Thành đã trả lại cho bà H 01Ti vi hiệu Samsung, màu đen, 32 inch, loại màn hình phẳng, model: UA32 J4003AK, type no: UA32J4003 nên không đặt ra xem xét.

Về trách nhiệm dân sự: Bà H đã nhận lại tài sản bị chiếm đoạt, không có yêu cầu gì và anh T không yêu cầu bị cáo trả cho anh số tiền 1.5000.000 đồng bị cáo mượn nên không đặt ra xem xét.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Châu Thành phân tích tính chất mức độ phạm tội; đặc điểm nhân thân, tình tiết giảm nhẹ của bị cáo. Đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Lê Văn K từ 06 đến 09 tháng tù.

Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát là có cơ sở, phù hợp với qui định của pháp luật. Vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1.Tuyên bố bị cáo Lê Văn K phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

- Áp dụng khoản 1 Điều 138; Điều 33; Điều 45; điểm h, p khoản 1,khoản 2 Điều 46 Bộ Luật hình sự;

Xử phạt bị cáo Lê Văn K 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt đi thi hành án và được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 07 đến ngày 16 tháng 11 năm 2016.

2.Về án phí: Căn cứ Điều 99 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016.

Bị cáo phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm, bị cáo, bà H có quyền kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử lại theo trình tự phúc thẩm. Đối với ông H, anh T vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày bản án được giao hoặc được niêm yết.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

217
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2017/HSST ngày 13/04/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:30/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/04/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về