Bản án 30/2017/HSST ngày 03/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐẮK MIL, TỈNH ĐẮK NÔNG

BẢN ÁN 30/2017/HSST NGÀY 03/07/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 03 tháng 07 năm 2017, tại trụ sở UBND xã Đức Mạnh, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 35/2017/HSST, ngày 22/06/2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Trần Văn D, Sinh năm: 1978; Tại: tỉnh Nghệ An.

Nơi đăng ký HKTT và trú tại: thôn ĐL, xã ĐM, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông. Trình độ văn hóa: 6/12; Nghề nghiệp: làm nông;

Con ông: Trần Văn D (đã chết); Con bà: Hoàng Thị Q, sinh năm 1954; trú tại thôn ĐL, xã ĐM, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông.

Tiền án, tiền sự: Ngày 11/01/2017, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt 06 tháng tù giam, về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, quy định tại khoản 1 Điều 250 của Bộ luật hình sự. Bị cáo kháng cáo. Ngày 13/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông chấp nhận kháng cáo, tuyên phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm.

Bị cáo là con thứ 02 trong gia đình có 07 anh chị em;

Biện pháp ngăn chặn áp dụng: bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 23/4/2017.

Hiện đang tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông. (Bị cáo có mặt).

- Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: anh Trần Văn T, sinh năm 1988,

có mặt; chị Hoàng Thị H, sinh năm 1986, có mặt.

Đồng trú tại:thôn ĐL, xã ĐM, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông.

NHẬN THẤY

Bị cáo Trần Văn D bị Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Vào khoảng 09h giờ 00 phút, ngày 23/4/2017, đối tượng nam giới tên P (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) đến rủ Trần Văn D đi Tp.Buôn Ma Thuột để mua ma túy về sử dụng thì được Trần Văn D đồng ý. Trần Văn D sang nhà Trần Văn T (là em trai của Trần Văn D, trú cùng thôn) để mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 48E1 – 078.17, để đi công việc riêng thì được Trần Văn T đồng ý. Sau khi mượn được xe mô tô biển số 48E1 – 078.17, Trần Văn D chở đối tượng nam giới tên P đến khu vực cầu 14 thuộc địa phận xã Hòa Phú, Tp.Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk để mua ma túy, trên đường đi P đưa cho Trần Văn D 480.000 đồng để mua ma túy. Khi đi đến một con hẻm thuộc địa phận xã Hòa Phú, Tp.Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk, Trần Văn D để P đứng ngoài đợi, còn Trần Văn D đi bộ vào trong gặp 01 người đàn ông (hiện chưa xác định được nhân thân, lai lịch) mua của người này 480.000 đồng được 02 gói ma túy gói trong tờ giấy bạc. Sau đó, Trần Văn D bỏ 02 gói ma túy vào túi quần trước bên phải của mình rồi điều khiển xe mô tô biển số 48E1 – 078.17 chở P đi về nhà. Đến 10 giờ 40 phút cùng ngày, khi về đến trạm thu lệ phí đường bộ, thuộc địa phận thôn BS, xã ĐG, huyện ĐM, tỉnh Đắk Nông thì bị lực lượng Công an huyện Đắk Mil bắt quả tang, thu giữ tại túi quần trước bên phải của Trần Văn D 02 gói giấy bạc (bên trong mỗi gói có chứa các cục chất bột màu trắng, nghi là ma túy) và đã tiến hành niêm phong theo quy định. Còn đối tượng nam giới tên P đã trốn thoát.

Tại bản kết luận giám định số 21/PC54 ngày 26/4/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đắk Nông kết luận: mẫu vật gửi giám định là chất ma túy, là Hêrôin. Tổng trọng lượng mẫu vật là 0,3845 gam. Hoàn lại đối tượng giám định gồm: mẫu vật còn lại sau giám định có trọng lượng là 0,2107 gam, đựng trong 01 gói nilon được niêm phong.

Tại Bản cáo trạng số 38/CTr – VKS ngày 21 tháng 06 năm 2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil đã truy tố ra trước Toà án nhân dân huyện Đăk Mil để xét xử bị cáo Trần Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội phạm và hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Đăk Mil đã phân tích, đánh giá tính chất của vụ án, chứng minh hành vi phạm tội của bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Trần Văn D về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Đề nghị hội đồng xét xử áp dụng: khoản 1 Điều 194, điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 33 của BLHS.

- Về hình phạt: xử phạt bị cáo Trần Văn D từ 02 năm đến 02 năm 06 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng Điều 51, Điều 60 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt của bản sán số 34/2017/HSPT, ngày 13/04/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xử phạt bị Trần Văn D 06 tháng tù cho hưởng án treo và hình phạt của bản án này, buộc bị cáo phải chấp hành từ 02 năm 06 tháng đến 03 năm tù

- Về vật chứng của vụ án: áp dụng Điều 41 của Bộ luật hình sự; Căn cứ Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 0,2107 gam Hêrôin hoàn lại sau giám định và bao gói mẫu vật). Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 48E1 – 078.17 cho chủ sở hữu hợp pháp.

Tại phiên toà, bị cáo không bào chữa, không tranh luận gì mà chỉ xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tại phiên tòa, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không yêu cầu bồi thương thiệt hại liên quan đến xe mô tô biển số 48E1 – 078.17.

Căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên toà, bị cáo Trần Văn D đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội mà bị cáo đã thực hiện đúng như diễn biến sự việc cáo trạng đã nêu. Xét lời khai của bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án.

Như vậy đã có đủ cơ sở kết luận vào lúc 10 giờ 40 phút, ngày 23/4/2017, tại thôn Bắc Sơn, xã Đắk Gằn, huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông, Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông bắt quả tang và thu giữ trong túi quần phía trước bên phải của Trần Văn D 0,3845 gam Hêrôin.

Xét quan điểm của Viện kiểm sát và lời nhận tội của bị cáo tại phiên tòa là có cơ sở, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử kết luận bị cáo Trần Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Khoản 1 Điều 194 BLHS quy định:

1. “Người nào tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

Theo Nghị quyết số 109/QH13 ngày 27/11/2015, Nghị quyết số 144/QH13 ngày 29/6/2016 của Quốc hội về thi hành Bộ luật hình sự năm 2015 và Công văn số 276/TANDTC – PC, ngày 13/09/2016, về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định có lợi cho người phạm tội của Bộ luật hình sự năm 2015. Hành vi phạm tội của Trần Văn D đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, được quy định tại khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015

Khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự năm 2015 quy định:

 “1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Hêrôin, côcain, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA có khối lượng từ

0,1 gam đến dưới 05 gam;

…”

Xét tính chất vụ án do bị cáo gây ra là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Bởi lẽ hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm chế độ, chính sách quản lý của nhà nước về các chất ma túy, hành vi của bị cáo đã góp phần làm gia tăng các tệ nạn trong xã hội, ảnh hưởng đến đời sống cộng đồng, ảnh hưởng đến trật tự an ninh xã hội.

Trong thời gian gần đây, trên địa bàn huyện Đắk Mil nói riêng, cả nước nói chung tình trạng tàng trữ và sử dụng trái phép chất ma túy một cách nghiêm trọng, đây là một vấn đề nhức nhối xã hội, chính từ ma túy là hiểm họa lớn cho toàn xã hội, gây tác hại cho sức khoẻ, làm suy thoái nòi giống, phẩm giá con người, phá hoại hạnh phúc gia đình, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự, an toàn xã hội và nảy sinh nhiều tệ nạn xã hội khác. Do đó, Hội đồng xét xử xét thấy cần có một mức án thật nghiêm tương xứng với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của bị cáo, đồng thời làm gương cho những ai đã và đang có ý định phạm tội, nhằm nhanh chóng loại bỏ loại tội phạm này ra khỏi xã hội.

Ngày 11/01/2017, bị cáo Trần Văn D, bị Tòa án nhân dân huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông tuyên phạt 06 tháng tù giam, về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, quy định tại khoản 1 Điều 250 của Bộ luật hình sự. Bị cáo kháng cáo. Ngày 13/4/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông chấp nhận kháng cáo, tuyên phạt 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm (kể từ ngày 13/04/2017), về tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”, quy định tại khoản 1 Điều 250 của Bộ luật hình sự. Ngày 23/4/2017, bị Công an huyện Đắk Mil, tỉnh Đắk Nông bắt quả tang về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Như vậy, bị cáo có hành vi phạm tội trong thời gian chưa được xóa án tích nên bị cáo phải chịu tình tiết tăng nặng “Tái phạm” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội đây là tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội thành khẩn khai báo” đây là tình tiết quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 của Bộ luật hình sự cần được áp dụng để xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo. Để thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật, nhưng cũng cần phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian đủ để bị cáo học tập, cải tạo trở thành người công dân tốt có ích cho gia đình và xã hội.

Tại bản án số 34/2017/HSPT, ngày 13/04/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông xử phạt bị Trần Văn D 06 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 năm tính từ ngày tuyên án phúc phẩm (ngày 13/4/2017). Đến ngày 23/4/2017, bị cáo có hành vi phạm tội mới trong thời gian thử thách cho hưởng án treo. Áp dụng Điều 51, Điều 60 của Bộ luật hình sự để tổng hợp hình phạt tại bản án số 34/2017/HSPT, ngày 13/4/2017 của TAND tỉnh Đắk Nông với hình phạt bản án này.

- Về vật chứng của vụ án: căn cứ khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng khoản 2 Điều 41 của Bộ luật hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 0,2107 gam Hêrôin còn lại sau giám định và bao gói mẫu vật. Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 48E1 – 078.17 cho chủ sở hữu hợp pháp.

Trong vụ án này còn có những vấn đề sau: Đối với đối tượng nam giới tên P và đối tượng đã bán ma túy cho Trần Văn D, do chưa xác định được nhân thân, lai lịch nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Đăk Mil, tỉnh Đắk Nông đang tiếp tục điều tra xác minh làm rõ, khi nào có căn cứ sẽ xử lý sau. Đối với anh Trần Văn T và chị Hoàng Thị H, do không biết Trần Văn D sử dụng xe mô tô mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 48E1 – 078.17 vào việc phạm tội nên không có căn cứ để xử lý trước pháp luật.

Về án phí: Bị cáo Trần Văn D phải chịu án phí theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Trần Văn D phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của Bộ luật hình sự.

2. Áp dụng: khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48 của BLHS.

2.1. Tuyên phạt: bị cáo Trần Văn Diện 02 (hai) năm tù.

2.2. Áp dụng Điều 51, Điều 60 của Bộ luật hình sự. Tổng hợp hình phạt 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo của bản án số 34/2017/HSPT, ngày 13/04/2017 của TAND tỉnh Đắk Nông và hình phạt của bản án này. Buộc bị cáo Trần Văn Diện phải chấp hành hình phạt chung 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam, là ngày 23/4/2017 (được khấu trừ thời gian tạm giam từ ngày 10/11/2016 đến ngày 24/11/2016 theo bản án số 04/2017/HSST, ngày 11/01/2017 của TAND huyện Đắk Song, tỉnh Đắk Nông).

3. Về vật chứng của vụ án: căn cứ khoản 1, 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự; áp dụng khoản 2 Điều 41 của Bộ luật hình sự: Tịch thu và tiêu hủy 0,2107 gam Hêrôin còn lại sau giám định và bao gói mẫu vật (theo Quyết định chuyển vật chứng số 22/QĐ-VKS, ngày 21/6/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Đắk Mil và biên bản giao nhận vật chứng của vụ án giữa cơ quan thi hành án dân sự huyện Đắk Mil và cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil vào ngày 22/06/2017). Trả lại 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển số 48E1 – 078.17 cho chủ sở hữu hợp pháp (theo biên bản giao nhận tài sản giữa cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Đắk Mil với anh Trần Văn Tuấn, chị Hoàng Thị Hương vào ngày 08/05/2017).

4. Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Trần Văn D phải nộp 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

5. Bị cáo có quyền kháng cáo cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo những nội dung liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của mình trong hạn mười lăm ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án, Quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a,7b và 9 Luật thi hành án Dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

244
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 30/2017/HSST ngày 03/07/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:30/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đắk Mil - Đăk Nông
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 03/07/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về